Những
con tàu hú
còi chạy qua.
Hai
người nam, một người nữ, người nữ
là tôi,
ngồi trong bóng tối, tối thật, trời không trăng không sao, chỉ một vòm
thăm
thẳm, trên vệ cỏ, cỏ đẫm sương và ướt lạnh, một bên đường tàu hỏa, sát
vách
núi. Dưới kia là biển cả, biển ở cuối bờ vực hun hút, sau lưng là vách
núi phủ
đầy cây leo và dứa bà, rất nhiều dứa bà, những phiến lá to dài mỗi lần
gió lên
cọ vào nhau kêu lách tách. Dù vậy giờ đây khi ngồi đây, dù lắng tai
thật kỹ
cũng không thể nghe nổi một âm vọng gì của biển, cũng như không thể
biết đỉnh
núi trên kia hình thù thế nào. Cách một quãng là trạm ga nhỏ im lìm bất động dưới ánh sáng
mấy
ngọn đèn vàng vọt chạy bằng
máy phát điện. ở đấy người ta đã ngủ cả. Lịm đi vào một giấc sau cuộc
sát phạt
đỏ đen, và rượu và dăm câu hát không đầu không cuối, những đêm vẫn trôi
qua như
thế cho năm người đàn ông, trước đây là bảy, đã bỏ đi hai. Lâu lâu,
chừng một,
hai giờ đồng hồ, có một đoàn tàu chạy qua, tiếng còi hú từ đằng xa bạt
trong
gió, ngọn đèn pha một nghìn oát quét một luồng ánh sáng chói chang xé
rách màn
đêm, chiếc đầu máy hùng dũng lao tới, tiếp theo là những toa tàu, cho
đến cuối
cùng lại một chiếc đầu máy, một chiếc đầu máy không quét đèn, chỉ dùng
để đẩy.
Khi chiếc đầu máy đẩy đã đi qua, ngọn đèn tín hiệu vẫn còn hắt lại một
đốm xanh
le lói như nỗi quyến luyến mơ hồ, nhưng cái đốm sáng xanh ấy cũng xa
dần, nhạt
hẳn và cuối cùng biến mất trong màn đêm, lại chỉ còn một vùng thăm
thẳm, lại
chỉ gió thốc từ dưới biển lên. Những con tàu lần lượt hú còi chạy qua
trong
đêm, chạy qua cái trạm ga bé nhỏ nơi lưng chừng đèo mà không dừng lại,
ngoại
trừ sự cố, chẳng hạn trưa nay, thay vì một cú lăn xuống vực; ngoại trừ
nữa
tháng một lần tàu dưới cung (1) lên đổ vật liệu hay tiếp tế.
Một
cái chén, rượu rót vòng quanh,
thức nhắm là
một nhúm con giông (2) khô đã chặt đầu móc ruột rang với mỡ và nước mắm
tỏi,
những con giông về mặt lý thuyết chứa nhiều vitamin và kháng sinh, giòn
và thơm
miệng. Hai người nam ăn một cách bình thản. Tôi rứt một cẳng chân cho
vào
miệng. Ngon. Và tởm. Vậy đó.
-
Cũng gần mười năm tồi. Tôi thấy mọi
sự bình
thường. Chẳng có tương lai gì. Trước đây đã chẳng có, sau này cũng
không.
Khi
ấy rượu đã vơi quá nửa. Khi ấy tôi
có cảm
giác như tôi cũng đã đông cứng lại cùng với bóng tối. Tôi hình dung thứ
giọng
khê nồng của Vĩ thoát ra từ những bờm râu, những bờm râu ngạo nghễ tự
do mọc
trên khắp gương mặt Vĩ, trên mép, quanh hàm, dưới cằm, hoang dại một
cách thách
thức, xóa đi mọi dấu vết của một thời đã phai nhòa lắm rồi trong ký ức
tôi, đến
nỗi hồi trưa nay nếu Vĩ không gọi thì có lẽ thêm lần nữa chúng tôi mất
hút
nhau, mà lần này biết đâu vĩnh viễn.
- Có vợ đấy, nhưng bỏ nhau
rồi. Vợ đi lấy người khác, cũng người trong cung. Đứa con mù từ hồi mới
đẻ,
chết rồi. Máu tôi nhiều dioxin. Người ta nói do di truyền, chắc do cha
tôi.
Vĩ
kể bình tĩnh, hoặc là lạnh lùng,
như thể
chuyện người khác, hoặc tất cả những sự kiện đó thậm chí còn ít ý nghĩa
hơn một
bữa ăn không vừa miệng.
Về
cha Vĩ tôi có nghe nói, dù ít ỏi.
Ông chết hồi
năm 1972 cùng với mẹ Vĩ, bom dội trúng hầm, khi đó Vĩ ba tuổi, chỉ bị
ngạt. Cha
Vĩ từ B(1) ra nghỉ phép và vì chết vậy nên không được công nhận liệt
sĩ. Vĩ ở
cùng người cô ruột, hưởng trợ cấp con mồ côi trong suốt thời kỳ học phổ
thông.
Tôi
không có ấn tượng gì về cha Vĩ,
những điều
trên đều do mẹ tôi kể lại, cũng như Vĩ, tôi không tin Vĩ có ấn tượng gì
về cha
mình, vì làm sao có thể có ấn tượng về một người đã chết lúc mình mới
ba tuổi.
Nhưng di truyền dioxin lại là chuyện khác.
Đêm
về khuya lạnh lẽo, càng khuya càng
lạnh.
Sương xuống dày. Trong quầng sáng của những con tàu chạy qua có thể
nhìn thấy
rõ những hạt mù sa bay lất phất trong không gian. Đầu và vai ướt đẫm.
Sương
cộng với gió từ biển rên xiết vào da thịt lạnh buốt mà rượu đốt từ tâm
can cũng
không xua bớt được chút nào. Cạn đi, coi như một tri ngộ, cạn, rồi chờ
đợi
những con tàu, vì đêm ở đây chẳng có gì hơn. Vĩ nói, chốc chốc nghiêng
chai
rót, mỗi lần rót là mỗi lần quay cái chén duy nhất đủ ba lượt.
Một
con tàu nữa chạy qua, một con tàu
sầm sập lao
từ đỉnh đèo xuống, con tàu khách lấp lóa những ô cửa đóng kín mờ đèn.
Những
bánh sắt nghiến xuống đường ray hung tợn, tiếng giã vào chỗ nối khô
khốc, tiếng
phanh rít ken két ghê rợn. Ngọn gió phóng khoáng thổi từ biển lên phút
chốc bị
chặn đứng lại trong cái khe hẹp không lối thoát, một bên là vách núi,
một bên
là con tàu dài hàng trăm mét, bỗng chốc như quẫn lên cuồng loạn, lồng
lộn cày
xới, sẵn sàng quẳng mọi thứ túm được vào gầm con tàu. Ngồi đó, chỗ vệ
cỏ thấp
hẳn xuống khỏi mặt đường, đầu vừa ngang gầm tàu, sát sạt với sự quay
xiết của
hàng trăm bánh sắt, choáng váng đi vì gió, bấy giờ tôi mới cảm nhận
được một
cách trọn vẹn sự tàn bạo của cái vật thể vẫn được miêu tả lãng mạn
trong văn
chương. Này Vĩ, làm sao có thể đêm nào Vĩ cũng nhìn ngắm nó đón đợi nó
mà không
mảy may sợ hãi...
-
Hạ có về làng không? Lần nào Hạ về,
nhớ cho tôi
gửi một lời chào. Phần tôi, tôi đã chuẩn bị rồi. Chừng nào thấy không
thể nữa
thì tôi sẽ ngồi trực diện mà chờ nó. Thế đơn giản và ít đau thương hơn,
đúng
không?
Vĩ
nói, vẫn giọng đều đều bình tĩnh.
Thôi Vĩ ạ,
tàu lại hú còi đằng xa rồi, Vĩ nói nữa thì không phải Vĩ mà là tôi, tôi
sẽ bước
vào đó trực diện mà chờ nó mất. Tôi không muốn được ít đau thương hơn,
tôi chỉ
muốn một sự gì khác hẳn. Thế có đơn giản hơn hay không thực tôi không
biết.
***
Tôi
nói với Bằng thôi mai xuống đèo,
tôi không
muốn lên đỉnh đèo nữa vì thực ra tôi có mục đích gì đâu, những tình cờ
ngẫu
nhiên cũng mang lại nhiều nỗi buồn quá, thôi sớm mai về Nha Trang rồi
tôi ra Hà
Nội, muốn gặp tôi Bằng hãy hẹn một cuộc khác. Nhưng giả sử không ngông
cuồng mà
đi chuyến này thì làm sao tôi có thể biết Vĩ đi đâu làm gì trong bấy
nhiêu năm,
mà rồi trong suốt cuộc đời cũng coi như Vĩ đã mất hút không lưu lại
chút dấu
vết.
-
Đi nhé. Vĩnh biệt! Vĩ gửi tôi và
Bằng lên một
chuyến tàu hàng và khi con tàu rùng mình chuyển bánh lo xuoóng dốc,
ngoái qua ô
cửa nhỏ xíu tôi bỗng nhiên nghe lời Vĩ chào, thấy bàn tay Vĩ vẫy như
một tuyệt
vọng, và dường như bấy giờ lần đầu tiên tôi mới hiểu một cách sâu thẳm
toàn bộ nỗi
đau đớn của Vĩ, từ thuở nào Vĩ quỳ trên sân ga xép nơi ngôi làng nhỏ bé
của
tôi, nơi cũng có những con tàu hú còi chạy qua mà không dừng lại.
Bên
cạnh tôi, Bằng đã ngoẹo đầu ngủ,
gương mặt
không cạo cùng với sự thất thường của mấy ngày qua trở nên sần sùi và
xám lại.
Tôi nghĩ, chỉ còn thiếu chi tiết Bằng để rớt một dòng nước dãi. Vậy mà
tôi yêu
Bằng, hoặc, thực chất tôi yêu những cuộc hẹn hò ở đó Bằng hiện diện,
những cuộc
hẹn đã trở thành niềm an ủi duy nhất trong thời tuổi trẻ của tôi. Như
ngày xưa,
không phải tôi yêu Vĩ mà tôi yêu niềm đau khổ của tôi, nỗi dày vò của
tôi, và
về sau này khi dần dần bị mất mát đi nhiều thứ, khi lòng chỉ còn nỗi
buồn tôi
đã luôn tưởng lại năm tháng xưa bằng một thứ ánh sáng lộng lẫy.
Vĩ
là bạn học của tôi suốt những năm
phổ thông.
Gọi là bạn học nhưng con người Vĩ trượt qua ký ức tôi vô cùng nhạt
nhẽo. Vĩ là
một hình thể cô đơn lạc lõng, sống thụ động dưới sự bảo trợ của người
cô bấy
giờ còn kinh hoàng bởi cái chết chỉ lui tới giữa hai không gian lớp học
và ngôi
nhà. Nhưng khi Vĩ xuất hiện trong gia đình tôi với tư cách là người yêu
của em
Quyên thì Vĩ đã như môtj con người khác. Tôi nhớ cái dáng vẻ thư sinh
của Vĩ
được sưởi ấm bởi tình yêu trở nên rạng rỡ. Những đêm trăng tôi ngồi bên
cửa sổ,
ở ngoài kia Vĩ và em Quyên, tôi đã hình dung ra đám cưới Vĩ, và tôi
nghĩ, rồi
đây vĩnh viễn tôi sẽ gánh gánh nặng này trên vai, không ngưng nghỉ.
Nhưng không
phải, em Quyên tôi bỏ Vĩ để đi theo một người có vợ và hai đứa con, mặc
mẹ tôi
khóc lóc, mặc thiên hạ cười chê và người vợ kia ngày một ngày hai lồng
lên ghen
tuông. Em tôi đi cho thỏa lòng yêu.
Tôi
có mủi lòng, mủi lòng chứ không
đau xót hay
cay đắng như khi Vĩ hạnh phúc. Vĩ quỳ trên sân ga xép nơi từ đó em tôi
ra đi,
những con tàu chạy qua, những hồi còi kéo lên rền rĩ, gió bấc thổi te
tái và
hơn một lần tôi chắc Vĩ tự tử mất.
ít
lâu sau tôi cũng rời làng. Tôi ra
thành phố,
những toan tính kiếm tiền, rồi những bả yêu đương ghê gớm đã dồn góp
hết tâm
trí, dần dần cái hình ảnh người trai ban đầu là Vĩ cũng phai nhòa rồi
mất hẳn.
Bấy
đến giờ đã nhiều năm. Tôi không hề
buồn vì Vĩ
nữa và Vĩ có lẽ thôi không còn đau khổ bởi em Quyên tôi nữa. Tôi, trong
ngần ấy
năm, nếu có nghĩ về Vĩ tôi sẽ nghĩ ra rất nhiều khả năng, riêng cái khả
năng Vĩ
mang dioxin trong máu thì tôi đã không thể nào nghĩ ra được.
*
* *
Tôi
trở ra Hà Nội, phần lớn thời gian
nháo nhào
với án hình sự, án kinh tế, ly hôn và ngoại tình, để phục vụ đông đảo
quần
chúng. Thỉnh thoảng, trong những đêm thanh tĩnh, nằm nghe Hà Nội sâu
thẳm hoang
vắng, tôi tự nhủ phải viết một cái gì, nghĩ ra một chuyện gì mà viết,
một
chuyện gì lớn lao to tát vượt khỏi đời sống thường thường vụn vặt, cái
đời sống
riêng tư thậm chí đã trở nên cặn bã từ lâu, nhưng ngắm mãi không biết
cái gì là
lớn lao to tát trong thời đoạn của chúng tôi. Chiến tranh thì qua lâu
rồi. Rồi
tôi nghĩ đến Vĩ. Vĩ biết đâu chẳng là nhân vật hay. Nhưng Vĩ là một cá
nhân.
Cũng như tôi là một cá nhân. Có quá khứ có hiện tại, quanh mình lúc nào
cũng có
con người mà sao cô đơn. Rồi tôi nghĩ đến Bằng. Bằng mới nghĩ tôi đã
xúc động,
nhưng Bằng ở đâu đó sau lớp lớp sương khói, đến nỗi nhiều khi tôi nghĩ
người ấy
như đã chết rồi mà nhiều năm nay tôi phụng thờ giống một lọc lừa, vì
người ạ
người hiện hữu trong đời tôi đấy mà như xa vắng từ lâu, vì người làm
sao sẻ
chia cùng tôi bởi tôi mà sống, vì tôi mà chết.
Lâu
lắm không có mưa. Trong thành phố
cái oi nồng
riết lấy những giấc ngủ không máy điều hòa vật vã, Miền Trung El Nino
cháy rừng
hạn nặng, lúa tàn lên như đốt, nhưng ngoài sông Hồng đang mùa nước, báo
động
ba, cũng không mưa trên Tây Bắc, mưa đâu từ nước người, chỉ lũ sông
Hồng thôi.
Trong
một ngày như thể người ta báo
tin cho tôi
rằng Vĩ đã chết. Sở dĩ người ta báo cho tôi vì tôi là địa chỉ duy nhất
lưu lại
chỗ Vĩ. Tôi tưởng do dioxin nhưng không phải, Vĩ chết vì đạn của bọn
săn trộm
Sao la (1). Người ta bảo mấy ngày đó không hiểu vì cớ gì Sao la trên
núi về
nhiều lắm, chúng chạy dọc đường tàu, trong bóng đêm, chúng chạy đàn đàn
lũ lũ
mà gọi nhau rền rĩ. Vĩ đi tuần, lạc giữa đám Sao la, rồi hứng đủ một
viên AK
vào lồng ngực.
Vậy
đó. Một con Sao la. Một con người.
Tôi
gọi cho Bằng nói Vĩ chết rồi. Bằng
ồ à một
lúc, bỗng hỏi: Vĩ nào, em nói Vĩ nào?
TTH