*










Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

 Người ta bảo: “Sự vĩ đại của con người nằm trong sự bình yên của tâm hồn”, nhưng có lẽ, con đường để đạt tới sự vĩ đại quá dài và quá khó khăn đối với loài người, nên hầu như tất cả thời gian của cuộc sống chúng ta trôi đi trong sự giằng xé khôn nguôi của biết bao câu hỏi. Ta là ai? Ta sẽ đi về đâu? Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn... Biết khi nào chúng ta mới tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn...

 Sự bình yên trong tâm hồn giúp con người có thể chiêm nghiệm cuộc sống, chiêm nghiệm bản thân. Nhưng phải chăng con người có thể hiểu được cuộc sống, hiểu được bản thân mình? Vậy thì thế nào là điều thiện và thế nào là điều ác? Adam và Eva xưa đã chẳng bị đuổi khỏi vườn Địa đàng vì dám ăn trái táo trí tuệ, tưởng rằng mình có thể phân biệt được Thiện - Ác trong khi chỉ có Thượng đế mới làm được đó sao! Và từ ngày đó, con người mò mẫm trong bể khổ, lẫn lộn giữa đen và trắng, ranh giới giữa thiện và ác, nhưng vẫn không nguôi ngoai nỗi khát khao tìm ra chân lý.  Phải chăng đó mới là cái vĩ đại của con người?

 
Để che lấp khoảng không gian trống rỗng trên đầu, con người không ngừng xây lên những ngọn tháp không bao giờ vươn tới được bầu trời. Bởi thế chúng sẽ bị phá hủy bởi thời gian hoặc chính con người. Nhưng sẽ có những con người lại tiếp tục xây, như những con dã tràng lặng lẽ và cô đơn xe cát...  Như Nguyễn Huy Thiệp...

 “Trước mắt tôi, dòng sông đang thao thiết chảy. Sông chảy ra biển. Biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển, mà tôi đã sống nửa cuộc đời rồi đấy... Thời gian cũng thao thiết trôi... Chỉ ít năm nữa tới năm 2000...”

 Hình ảnh những con sông chảy về với biển cứ trở đi trở lại trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp chính là dòng suy tưởng lặng lẽ của nhà văn, là nỗi khao khát cồn cào muốn tận hưởng cuộc sống, muốn đo được đáy sâu của thời gian. Bởi vì thời gian đang trôi đi, thời gian đang giục giã! Mà thực ra cũng không phải, “Các người nói: thời gian đang trôi qua! Lũ điên rồ, đó chính là các người đang trôi qua” (Talmut - Cựu ước).  Điều bi thảm là ở chỗ, có quá ít người hiểu được điều đó, có quá ít người có thời gian để suy ngẫm về thế giới chúng ta đang sống và những gì làm nên cuộc sống của chúng ta, về chiều sâu của thời gian, về “những giây có độ chứa nhiều”... Ai cũng vội vã cho cuộc sống ngày mai, nhưng không ai có ý định sống ở ngày hôm nay!

 Mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng đối với riêng tôi, những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cũng giống như những viên ngọc Biện Hòa, những viên ngọc với lớp đá vỏ xù xì, thô ráp bên ngoài, và nó đẹp nhất chính vì người ta biết trong lớp đá đó tiềm ẩn một viên ngọc. Và ngay cả những tia sáng long lanh của viên ngọc dưới ánh mặt trời, khi đã thoát thai từ mẹ đá cũng làm sao so sánh được với thứ ánh sáng huyền ảo kỳ diệu của nó khi còn nằm trong trí tưởng tượng của con người?

 Đọc các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cũng giống như một cuộc vật lộn với chính bản thân mình. Rất khó tìm thấy nơi để tâm hồn có thể nghỉ ngơi trong những trang viết của ông. Nó quá kiệm lời, quá thâm trầm, và cũng đúng một cách tàn nhẫn. Con người lần lượt bị tước dần mất những tấm màn ảo tưởng mà chính họ tự dựng lên và thành tâm tin vào, những thứ vốn giúp họ sống trong một thế giới buồn chán, không thể sống mà không có ảo tưởng. Chúng ta lúc nào cũng phải đối mặt với chính mình, trần trụi, lạnh lùng.

 Nhà văn Liên xô Vladimir Tendriacov đã khái quát rất rõ phần cuộc sống đó của chúng ta: “Tất cả chúng ta đều tham gia vào một trò chơi, nơi có điều kiện là: cần phải xem sự dối trá là sự thật, nhưng chúng ta hãy nên nhớ là, cái trò chơi đó - đem sự giả dối thay cho sự thật - lại chính là cuộc sống của chúng ta”. Tất cả chúng ta đều im lặng chấp nhận luật chơi, coi cái đen là trắng, trắng là đen. Dù hết thảy đều hiểu rằng, sự thật hoàn toàn không phải thế, nhưng con người cứ đào sâu chôn chặt những suy nghĩ của riêng mình, chỉ giữ những suy nghĩ đó cho bản thân mình, còn “xung quanh chúng ta những người thông minh có thừa, chỉ thiếu mỗi những người dũng cảm” (Francoi Giro). Bởi thế, chúng ta tự ru ngủ bản thân trong một thế giới ước lệ, trong những “happy end”, những “bi kịch lạc quan” truyền thống, và lập tức tức giận đùng đùng nếu có ai phũ phàng kéo ta khỏi những giấc mộng ban ngày đó. Sống quá lâu trong giả dối, con người cũng thành tâm tin vào những ảo tưởng do chính mình sáng tạo ra.

 Nguyễn Huy Thiệp là một trong số ít người không chấp nhận luật chơi. Ông lạnh lùng dội những xô nước lạnh toát lên đầu chúng ta. “Đó không phải là chân lý, không phải là cuộc sống”! Những thông điệp - truyện ngắn của ông phẫn uất hét lên. Ông lôi tuột chúng ta xuống từ khoảng trống lửng lơ giữa trời và đất, buộc ta phải đối mặt với mình, với một thế giới Không có vua, dạy chúng ta Những bài học nông thôn, bắt chúng ta phải hiểu rằng, trước khi muốn nhìn lên bầu trời thì phải nhìn mặt đất đã.

 Mà mặt đất của chúng ta vẫn còn đang đầy rẫy những thói dối trá ti tiện, những bất công độc ác, “những giáo điều đạo đức... giản dị, ngây ngô, buồn cười, sơ lược thậm chí còn đểu giả nữa” (Những người thợ xẻ). Không phải ngẫu nhiên hai loại nhân vật chính trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp lại là những người nông dân và tầng lớp tiểu thị dân thành phố. Họ chính là thành phần đông đảo nhất của tập hợp những đám đông, một loại đám đông đang bị tha hoá dần bởi thứ văn hoá thấp kém, có sức trì kéo, bởi không khí tù đọng ngột ngạt của làng quê. Những con người “đầy những thành kiến ngộ nhận” ấy đã đánh mất những gì làm nên niềm vui sống của cuộc đời, cuộc sống đối với họ chỉ còn là cuộc đấu tranh sinh tồn để kiếm miếng ăn, vui lòng với thứ văn hoá lá cải dành cho họ. Một đám đông mất dần ý thức công dân cũng như lương tâm của mình.

 Sự nghèo nàn cả về cuộc sống vật chất lẫn tinh thần chính là bóng đen nuôi dưỡng cái ác.  Những “mảnh đất cằn đã làm cho con người trở nên ti tiện”, “những đố kỵ, hằn thù, ganh ghét, những định kiến hẹp hòi và đạo đức giả” đã làm thoái hoá bản chất của con người lương thiện, của phần người trong mỗi một con người. Nhiều nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp, méo mó, dị hình về cả ngoại hình lẫn tâm hồn. Cái ác - những con “quỉ sống với người” - với muôn bộ mặt luôn lẩn quất quanh họ, thúc giục họ. Và biết bao điều tốt đẹp trên thế giới này đã tan biến đi trong sự thờ ơ của đám đông ấy. Nhưng thực ra đó cũng không phải lỗi của họ! “Đừng trách họ thế! Có ai yêu thương họ đâu... Họ đói mà ngu muội lắm... Con người ta tăm tối lắm. Con người vô tâm nhiều như bụi bặm trên đường...” (Chảy đi sông ơi). Nhìn thẳng vào bóng đen ấy, “hiểu rõ những đau khổ ấy mà ở trong ta nảy nở ra sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tình người” (Những ngọn gió Hua Tát).

 Nguyễn Huy Thiệp “căm thù sâu sắc những kết thúc truyền thống” (Trương Chi), hay chính xác hơn, ông căm thù tất cả những bức màn mà thói đạo đức giả đã căng ra trước mắt con người, không cho họ nhìn thẳng vào sự thật. Hiếm có nhà văn nào lại có giọng điệu rẻ rúng văn chương như ông. Nhưng thực ra, đó là sự tức giận cần thiết của người cầm bút trước sự thiếu vắng của một nền văn hóa chiều sâu, một nền văn hóa mang nặng cái Tâm của những người làm văn hóa. Chính vì vậy ông “sợ nhất những kẻ mơ mộng bất tài... bọn nho giả và bọn tập tọng làm văn chương” cũng như “ông khinh những kẻ không dám sống thực, không dám lặn sâu xuống đáy cuộc đời. Ông cũng khinh cả những kẻ lặn mình xuống đáy rồi ngập ở đấy không ra được” (Chút thoáng Xuân Hương).

 Có thể những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp cực đoan. Có thể cuộc đời không toàn những bức tranh đen tối như thế, có thể “trên đời này vẫn còn những điều thơ mộng cho những ai xứng đáng với nó” nói như Andre Moroa trong Hoa violet ngày thứ Tư, nhưng khổ nỗi ông lại thuộc loại người muốn dùng sắt nung để chữa vết thương, muốn dùng lửa để đốt tan đi tảng băng vẫn đang ngự trị trong văn học hiện tại, muốn đánh thức con người khỏi “thái độ không hiểu biết vô tình, bóng ma của một kết cục tận thế trong tương lai mà bây giờ chưa ai nhận thấy, chưa làm ai hoảng sợ” (Vladimir Tendriacov). Điều đó cũng giải thích tại sao chàng Trương Chi của ông “bốn nghìn năm trước chàng đã đau đớn thế này, chàng đã căm giận thế này”. Trương Chi căm giận “mọi ước lệ của cuộc đời đã lướt qua chàng không để dấu vết” vì nhận thức được cả thế giới chúng ta đang sống trong một sự ước lệ khổng lồ, khủng khiếp. Và chúng ta sẽ lướt qua nó, cũng “không dấu vết”, không gì chứng tỏ chúng ta từng hiện hữu trên đời.

 Nguyễn Huy Thiệp không thích “vẻ sạch sẽ gớm ghiếc của người đời” vì nó “trái lẽ tự nhiên”, ông muốn bắt người đọc phải đối diện với những gì “vừa tàn nhẫn, vừa phi lý”, bởi vì như ông nói: “Lẽ đời là thế” (Trương Chi). Ông muốn gạt bỏ tất cả những lớp sơn hào nhoáng và không hào nhoáng mà người ta không ngừng tô vẽ lên sự thật.  Cuộc sống không cần bất cứ một sự tô vẽ nào, nó đẹp chính vì nó là cuộc sống, vậy thôi! “Điều ấy thật giản dị và đẹp. Nhưng điều ấy lại đầy xót xa”. Ông muốn gọi sự vật bằng đúng tên gọi của nó, không màu mè, không đạo đức giả:

 "Tôi biết một thứ ngôn ngữ giản dị như đất

 Thứ ngôn ngữ mộc mạc, thẳng băng

 Tựa như tiếng tù và

 Như tiếng kèn đồng

 Như tiếng chuông vọng

 Có một thứ ngôn ngữ thức tỉnh con người

 Buộc họ soi vào lòng mình

 như soi mặt xuống lòng hồ”

                              (Mưa Nhã Nam)

 Nhưng liệu đó có phải là sai lầm không nhỉ, liệu có nên phơi bày tất cả những xấu xa trong tâm hồn con người lên trang giấy, cướp đi niềm tin ngây thơ vào những ước lệ vốn làm nên cuộc sống của họ?

 Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp sẽ chẳng có gì khác biệt với một số nhà văn khác, những người đã chuyển rất nhanh từ cực này sang cực kia, từ những bức tranh toàn mầu hồng sang toàn màu đen, nếu như trong bức màn tối đó ông không nhìn thấy và chăm chút cho những mầm thiện nhỏ bé, những đốm lửa kỳ diệu của thiên lương, những thứ ông tin rằng sẽ có đủ sức mạnh cần thiết để đương đầu với bóng tối đang ngự trị trên thế giới, cải tạo lại và làm trong sạch cuộc sống của con người.

 Người ta bảo trên đời này có hai loại điều thiện. Điều thiện chỉ đơn giản là điều thiện và điều thiện sinh ra để đương đầu với cái ác. Những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp chỉ nối tiếp đề tài vô tận của những nhà văn đi trước và sẽ của cả những nhà văn đến sau: cuộc đấu tranh vĩnh cửu giữa cái thiện và cái ác để giành quyền kiềm soát tâm hồn con người. Nhưng cuộc đấu tranh lần này không hề đơn giản vì mầm ác nằm ngay trong lòng mỗi người, “ma quỉ nằm ngay trong lòng ta” (J. P Sartre). Người ta làm điều ác thật dễ dàng bởi điều ác chính là một phần cuộc sống của họ. Vấn đề là họ có nhận thức được mình đang làm điều ác hay không, bởi vì như Bielinsky đã nói: “Người cao thượng không phải là người không bao giờ đê tiện. Người cao thượng là người biết mình có những lúc đê tiện”. Nhận thức được cái ác có nghĩa là đã chiến thắng được cái ác.

 Một trong những truyện ngắn hay nhất của Nguyễn Huy Thiệp, Muối của rừng, chính là bài ca trữ tình ca ngợi cho sức mạnh kỳ diệu đó của thiên lương. Tâm trạng ông Diểu, từ khi nẩy ra ý định vào rừng săn thú cho tới khi cay đắng hiểu ra rằng “hóa ra ở đời trách nhiệm đè lên từng mỗi sinh vật quả thật nặng nề” và “buồn tê tái đến tận đáy lòng” đã đi qua cả một chặng đường dài trong sự thức tỉnh của lương tâm con người trước cái đẹp. Và khi đó, ông đã gặp hoa tử huyền, biểu tượng của hạnh phúc, của cái Thiện. “Loài hoa tử huyền cứ ba chục năm mới nở một lần. Người nào gặp hoa tử huyền sẽ may mắn. Người ta vẫn gọi hoa này là muối của rừng. Khi rừng kết muối, đấy là điềm báo đất nước thanh bình, mùa màng phong túc”. Con người ra đi với ý định huỷ hoại thiên nhiên, hủy hoại cuộc sống, khi trở về lại đi như nhập vào lòng thiên nhiên, vào lòng cuộc sống: “mưa xuân dịu dàng nhưng rất mau hạt. Ông cứ trần truồng như thế, cô đơn như thế mà đi. Chỉ một lát sau, bóng ông đã nhòa vào màn mưa.”

 Những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp không ngừng suy tư về ý nghĩa của cuộc sống, của tình yêu, của cái chết... Ông không bao giờ tìm ra lời giải đáp trọn vẹn cho những câu hỏi đó. Có lẽ chính vì vậy nên những nhân vật trong các truyện ngắn của ông luôn luôn cô đơn “như một hành tinh, như ngọn gió”. Họ luôn luôn day dứt bởi câu hỏi: “Liệu con người có hiểu được con người không, có thể tôn trọng và yêu mến con người không... Tại sao những người tốt lại thường đau khổ, bất hạnh?” Đôi lúc họ cũng muốn buông trôi tất cả, phó mặc tất cả để mong có một cuộc sống thanh thản, cái thanh thản nhẹ dạ của người đời, bởi vì “day đi dứt lại mãi mà làm gì”. Nhưng họ không thể biến đổi con người mình, trái tim mình, tâm hồn mình. Như một số phận, như một lời nguyền... Và những con người ấy, như những sa mạc cô đơn, cứ suốt đời đi tìm “con gái thuỷ thần” của cuộc đời mình. Bản chất của tình yêu, của nghệ thuật là luôn hướng tới cái tuyệt đối, bởi vì chỉ có nó mới vượt cao hơn thời gian, cao hơn cái chết. Và mặc dù “tất cả mọi sự thanh cao hoang tưởng vẫn chết trong cõi dung tục như thường” (Chút thoáng Xuân Hương), nhưng các nhân vật của ông vẫn luôn luôn tin vào những điều kỳ diệu của cuộc sống. Họ luôn luôn theo đuổi cái điều không thể có, cũng như Trương Chi đã yêu Mị Nương “rỗng tuyếch và tẻ nhạt” chỉ vì “tình yêu của chàng hướng về tuyệt đối”, còn nàng là “cái bẫy của số phận chàng”.

 Nguyễn Huy Thiệp có một giọng văn rất lạnh lùng, nhưng ẩn dấu phía sau nó lại là một lòng nhân ái sâu xa, trìu mến đối với con người. Bởi vậy, những truyện ngắn của ông, với lời văn thâm trầm và ngắn gọn như cổ sử, dẫu chua chát hay tàn nhẫn, vẫn không gây cho chúng ta niềm tuyệt vọng, mà trái lại, vẫn khiến tâm hồn chúng ta tràn lên bao nỗi xót thương đối với những người xung quanh. Ông cảnh báo mọi người “Bản tính người Việt là hay trông ngóng, nhiều khi quên gốc ở ngay chính tim óc mình” (Chút thoáng Xuân Hương), và luôn luôn muốn vun xới cho cái gốc ấy. Ông đặt niềm tin của mình vào những thầy giáo Triệu (Những bài học nông thôn), sư Huệ (Hoa sen nở ngày 29 tháng 4)... “những người khai hoá vĩ đại của nhân dân”, những người ông hi vọng sẽ đem đến cho những người dân bình thường ngọn lửa ấm áp bao dung của tôn giáo, của tri thức làm người. Và ở đây, ông tỏ ra gần gũi với vị bá tước râu bạc ở Iliana Polianskoe, với những người dân túy:

 "Anh sẽ dạy chúng, phải không, anh sẽ dạy chúng

 Tay phải thì vung cao

 Còn tay trái đặt lên trái tim

 Anh sẽ dạy chúng, phải không, anh sẽ dạy chúng:

 Đây là số không, đây là số một

 Còn mẹ thì không bao giờ được quên

 Phía trước là chân lý

 Rất có thể có nạn hồng thuỷ

 Mà ngoài trái đất là thiên hà

 Đây là chữ a...”

 (Những bài học nông thôn)

 Những gì có thể giúp con người vượt lên trên cái vô nghĩa của cuộc sống và sự trống rỗng của tâm hồn? Đối với Nguyễn Huy Thiệp, con người không thể trở nên tốt hơn, thánh thiện hơn nếu họ thiếu quan tâm đến cái “xó tối tăm lương tri ngày đêm khản tiếng khóc thầm” ấy. Chính những giây phút day dứt của tâm hồn, những dằn vặt của lương tâm “tâm càng lớn càng nhục” (Tướng về hưu), “Khổ lắm. Nhục lắm. Vừa đau đớn, vừa chua xót. Nhưng thương lắm.” (Không có vua) đã làm cho con người trở thành người hơn. Và khi đó, họ có thể kiêu hãnh ngẩng cao đầu: “Nghĩa tình lại chuộc nghĩa tình. Vô sự với tạo hóa, trung thực đến đáy, dù có sống giữa bùn, chẳng sợ không xứng là người” (Những người thợ xẻ).

 Alfred Ardler, một trong những học trò xuất sắc của Freud nói: “Tất cả ý nghĩa của cuộc sống chúng ta là ở chỗ chúng ta luôn luôn cảm thấy chúng ta thiếu mất một cái gì và mong muốn làm tất cả để bù đắp lại sự thiếu thốn đó”. Mỗi một người cảm thấy thiếu thốn một cái riêng, cũng như họ có cách của riêng mình để thoả mãn nỗi khát khao đi tìm phần cái “tôi” còn trống vắng của mình. Những con người như Nguyễn Huy Thiệp chỉ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trên con đường không có tận cùng hướng tới chân lý. Và vì bản thân sự hướng tới chân lý còn quí giá hơn cả chân lý, ông sẽ vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu vô vọng của ông chống lại những chiếc cối xay gió khổng lồ. Cuộc đấu tranh vô vọng, nhưng không thể không đấu tranh...

 Hà Nội 27.6.1995

  Nguyễn Thanh Sơn