*

 






*

Trần Thanh Hà @ Bảo Ninh's, Hanoi, 2002


Chân Dung Quỉ

Lời giới thiệu:

Tuyệt, nhất là những đoạn tả An vẽ, làm nhớ Nguyễn Tuân tả tiếng đàn Bá Nhỡ, nhưng như người ta nói, vẽ quỉ dễ, vẽ người, khó; nhân vật Quỳnh không đủ sức mạnh, [theo nghĩa quá mờ nhạt], không đủ uy lực để tạo ra  một con quỉ là An, và luôn cả, Huệ, sau đó.

Jennifer Tran

 

Không sát mặt đường nhưng lối vào rộng rãi, yên tĩnh, không gian thoáng đãng, đủ để cảm giác thành phố đang ở bên dưới mình. Một góc riêng biệt, tách cà phê bốc khói, đôi ghế mây giản dị, xung quanh phong lan rũ những lá cành mềm mại, lác đác vài giò hoa tinh khiết một cách kiêu xa. Những sáng có hơi gió heo may, ăn mặc thật phong phanh, co ro ngồi trong ghế, nhấm nháp từng chút nhỏ cà phê để tận hưởng hết vị ngọt đắng từ từ tan ra trên đầu lưỡi loang dânf trong vòm miệng, mơ màng nhìn mặt hồ Thiền Quang bảng lảng khói sương dường như còn ngái ngủ, sẽ sàng hít hà hương hoa lá phảng phất mong manh, nghe phố xá dưới kia vọng vào...

 

 Thỉnh thoảng, mệt nhoài vì lang thang, ghé ngồi lơ vơ bên hè đường Nguyễn Du trông sang hồ Thiền Quang, uống những cốc cà phê rẻ tiền nhạt nhẽo, Quỳnh đã say sưa nói về viễn cảnh của một ngày nào đó. Quỳnh bảo, ngày nào đó mình thật nhiều tiền, mình sẽ ngồi đó tha hồ ngắm mặt hồ, rồi vẽ mặc cho người ta chen chúc. Quỳnh nói, và Quỳnh ngoái cổ nhìn những biệt thự im lìm dọc bờ đường bằng ánh mắt rất căm thù. Làm sao mình có tiền được hả anh? Quỳnh hỏi, bằng một giọng ngơ ngác, cả giọt nước mắt ứa ra trong khóe mắt cũng ngơ ngác y vậy.

 

Sáng nào thức dậy, ra ngồi trên gác thượng, bao giờ An cũng nhớ rất rõ hình ảnh Quỳnh, chi tiết đến từng điệu bộ, từng cử chỉ, nhưng rồi ngay lập tức ký ức An lại sẽ quay về một hình ảnh khác, đó là Huệ với cái nắm tay thật chặt và đôi mắt rực sáng đến nhói lòng. Vào một buổi khác, khi đó An cưới Huệ được một thời gian, đột nhiên nổi cơn nhớ Quỳnh. An chở Huệ ra ngồi góc quán cũ, vô tình buột ra cái mơ ước từ thuở nào thuộc về Quỳnh. Mình sẽ có tiền, anh ạ!  Huệ quả quyết, rồi trở về. Huệ treo bức chân dung An vẽ Huệ ra cửa hàng. Sau đó An bỏ quán truyền thần lần hồi từ những khách hàng đầu tiên là đám bạn buôn mỹ phẩm của Huệ, cho đến khi mua được ngôi nhà này thì lần nữa An bỏ vẽ minh họa cho báo Văn Học để lập hẳn một salon sang trọng, tiếp những khách hàng ngày mỗi sang trọng và đông đảo hơn.

 

Giờ đây, thỉnh thoảng chạy từ ngoài phố về, gặp lúc An rảnh rỗi, sà vào An bằng tất cả sự nồng nhiệt chân thành, Huệ vẫn nhắc đi nhắc lại với toàn bộ vẻ tự hào và đắc thắng, rằng là từ ngày xưa, từ thuở cơ hàn đó, Huệ đã nhận ra An, tầm vóc và sự vĩ đại, và Huệ với tình yêu của mình đã khởi đầu cho An, vân vân và vân vân. Và luôn luôn An nở một nụ cười méo xệch từ trong tâm.

 

***

 

An, theo đánh giá của dư luận, trong đó gồm giới báo chí, một trăm phần trăm khách hàng và thêm rất nhiều người nữa, là họa sĩ vẽ chân dung số một của Việt Nam. Gọi là số một không phải vì nghệ thuật của An có cách tân gì ghê gớm, mà, như bình luận của nhiều báo là ở mức mê dụ của từng đường nét, từng sắc điệu sáng tối, là khả năng làm lấp lánh một tâm, đến nỗi đứng trước tác phẩm An vừa có cảm giác đang có mặt một con người thực sống động vừa như đứng trước một ảo hình, thấp thoáng, vời sa, bị dẫn dụ, bị hớp hồn. Đó là những chân dung theo phong cách Phục Hưng, của Botticelli hay Leonard de Vinci..., giờ đây trị giá hàng tỉ sáng choang trong các viện bảo tàng, hay u hoài trên tường những lâu đài cổ của những dòng họ đại quý tộc trong vài thế kỷ trước. Người ta nói, vẽ chân dung theo lối cổ điển, sự chối từ ấn tượng, siêu thực... là một thái độ nghiêm túc đối với hiện thực, là một sự trân trọng, khát vọng đến tuyệt đối với cái đẹp. Rất nhiều những từ ngữ to tát dành cho An, kể từ bài giới thiệu đầu tiên trên báo Văn Học, tờ báo bấy giờ An làm họa sĩ minh họa, sau khi An tổ chức triển lãm tranh chân dung mà trong đó nhiều mẫu nhân vật của An là những người nổi tiếng. Trong một thời gian dài, ảnh An nhan nhản trên mặt báo, hầu như vài tuần, vài tháng, thể nào An cũng ra mặt một lần trên truyền hình, hết Văn học nghệ thuật đến Tác giả tác phẩm, hết Phóng sự đến Khách mời hay Gặp gỡ khán giả màn ảnh nhỏ... Nhà của An, điện thoại réo rắt đến nỗi Huệ phải cắt hẳn một cô cháu để trả lời. Ngày ngày những người hâm mộ và khách hàng lũ lượt ngoài cổng. ở đấy Huệ cũng sắp sẵn một phụ tá, để thu xếp ai vào ai không, và vào giờ nào... Nhưng Huệ luôn luôn không từ chối một khách hàng nào, chỉ có điều họ phải kiên nhẫn chờ đợi, vì, theo lời Huệ, nghệ thuật phải kỳ công, tỉ mỉ, phải đau khổ, tĩnh lặng và dồn hết tâm trí, rằng nghệ thuật khác hẳn với hàng chợ... Về sau này, khi tình trạng quảng cáo An không còn cấp tập nữa thì mới có một người khách lặng lẽ đến nhà An theo một lịch đã hẹn có sẵn đâu từ tháng trước, qua điều phối của cô cháu Huệ. An được báo tin trước hai tiếng, vào buổi sáng, khi ngồi trầm tư bên tách cà phê bốc khói nhìn ra hồ Thiền Quang bảng lảng và nghĩ về Quỳnh.

 

An, không biết bao nhiêu lần trong cuộc đời mình, vào lúc chín giờ bước vào phòng vẽ, một căn phòng có nhiều cửa mở hướng ra thiên nhiên, có rất nhiều rèm và đèn để tùy thời tiết và đối tượng có thể thiết kế ngay một form ánh sáng phù hợp, bắt gặp ỏ đó khi một mệnh phụ vợ của một quan chức cao cấp, khi khác là phu nhân X, Z... hoặc một nghệ sĩ, một minh tinh nào đó, như thể quây quần trong một thế giới tinh hoa ngày một nhiều lên của xã hội. Họ ở khắp Hà Thành, ở Sài Gòn, đôi người từ tỉnh xa đến, đó là những người đang cố gắng đạt đến độ sang trọng quý phái bằng một bức chân dung bóng loáng sau mặt kính, áo xống trễ tràng hở hết vai và ngực, kiềng vàng chuỗi ngọc lấp lánh, ngồi chờ đợi. Luôn luôn An biết, họ tự phụ ở một nội tâm nào đó chìm khuất bên trong, một nội tâm mà đời thường tục lụy người ta không thể nhận ra, và chỉ có An, may chăng là cảm được. Và họ run rẩy hồi hộp chờ hiện lên trên nét vẽ An niềm kiêu hãnh, sự phong lưu quý phái và hoàn mĩ một cách bí ẩn. Sáu, tám hay mười triệu, giá mỗi bức chân dung tùy theo hoàn cảnh, đâu có hề gì, điều cốt lõi là giờ đây có người thấu hiểu, chiếu rọi được ánh sáng vào thẳm sâu đời sống họ, giờ đây họ tìm thấy nơi An vẻ đẹp của tri âm. Tri âm? An đứng trong ánh sáng chan hòa luôn luôn hợp lý để tôn tạo mọi dáng nét, giữa một bên là người đàn bà lấp lánh kiềng vàng chuỗi ngọc, một bên là tấm vải vẽ trắng tinh. Đôi khi rùng mình ngỡ còn đứng quanh quẩn với những âm hồn thuở nào ở quán truyền thần Phố Huế. Những đen trắng mốc ố, những cặp mắt tiền kiếp, khi nữa là mù sa từng tảng như khí độc đùn dưới vực lên chiều hè nào đó giữa khóa học An với Quỳnh về quê, chèo ngược sông Thạch Hãn qua Trấn qua Ba Lòng rồi hứng chí trèo lên đỉnh Thạch Bàn chơi. An còn nhớ ở đó An đã ngồi trong luồng mù đậm đặc hướng mắt về xuôi thấy thành cổ bằng lòng bàn tay ngập một trời nắng, nghe Quỳnh thở dài nói đến tri âm và lầm lạc. Sao cho nỗi tri âm trong cõi đời mù mịt thế kia! An đã hoảng sợ và tuyệt vọng. Và An đã ham muốn chia rớt một cách tàn khốc, tức là phải dằn vặt phải làm Quỳnh thật đau đớn, hoặc phải nghiền nát Quỳnh đi để Quỳnh có thể tan biến mà bằng cách đó An được Quỳnh mãi mãi. Quỳnh âm thầm, chỉ mắt nhìn hun hút, y hệt cách nhìn thỉnh thoảng về sau An thấy hiện lên trên nền vải trong một hình hài khác, khi nghe máu mình chảy ở trên đỉnh non.

 

Mọi chuyện bắt đầu sau khi Quỳnh trở về quê nhận làm chuyên viên cổ động cho phòng Văn Hóa huyện, còn lại mình An giữa lòng Hà Nội đông đúc và nỗi cô đơn không chốn nương tựa. An thuê chung một góc ổ chuột trong làng Khương Thượng với ba cựu sinh viên Bách khoa quyết chí bám trụ Hà Nội. Ngày ngày, khi ba chàng kia chạy đôn đáo ra chợ lao động thì An kỳ cạch chiếc xe đạp tã lên Phố Huế phụ vẽ truyền thần với ông thợ truyền thần tên Diểu. Ở đó, phơi mặt ra ngoài đường, sáng đến chiều hứng khói bụi và nhức đầu vì tiếng ồn, An bặm môi bặm miệng học truyền thần người chết từ những bức ảnh cũ, cái ố cái mốc, có nhiều cái chỉ bé bằng đầu ngón tay. Ở đó, ba tháng đầu ngoài cơm ngày hai bữa đạm bạc, ông Diểu trả An số tiền đủ để góp với các bạn trả tiền thuê nhà, đi cắt tóc và một đôi lần tự cho phép mình ra ngồi góc phố Nguyễn Du để tưởng nhớ Quỳnh. Nhớ Quỳnh, lần nào đó An cũng ngước nhìn những biệt thự kín cổng cao tường bằng con mắt căm thù.

 

Ông Diểu bảo: Mày tài! Truyền được thần người sống thì mày tài nữa. Ông Diểu nói câu đó vào tháng thứ bảy kể từ ngày An ngồi vẽ với ông khi An có dấu hiệu vượt thầy về kỹ nghệ truyền thần. Hôm ấy An có thư nhà, cô em gái đi học cấp ba trường huyện sau một hồi kể lể chuyện nhà cửa, bố mẹ, cả chuyện con trâu nái, con chó mực, đã không quên nhắc đến Quỳnh. Cô viết Quỳnh giờ đây bụng vượt mặt và sắp đẻ rồi. Điều này An biết, vì từ lúc Quỳnh lấy chồng cất mặt lên khỏi đám ảnh người chết thể nào An cũng nhớ Quỳnh, mà nhớ Quỳnh là trong trí An bày ra đủ cảnh Quỳnh với chồng Quỳnh, hoặc Quỳnh lít nhít với con cái. Lòng An sục sôi vừa buồn vừa hận. An tự nhủ coi Quỳnh phản bội và hãy khinh bỉ Quỳnh đi, mà giờ đây đọc cô em An vẫn cảm thấy nỗi gì gần giống sỉ nhục. Cầm mấy tháng lương, An nghỉ hai ngày việc, sắm bộ cánh mới, đạp xe đến mấy cô bạn cũ học cùng khóa mỹ thuật. Ấm ức lắm thì An chết mất.  An cần giải tỏa, cần mộtngười để quên Quỳnh hoặc để trả thù Quỳnh, đại loại thế. Mấy cô bạn học, cô có chồng thì bận rộn chồng con, cô chưa chồng thì rủng rỉnh với những gã bồ giàu có. Nghe An kể chuyện đi truyền thần các cô bấm nhau tủm tỉm, nghe chuyện Quỳnh chửa đẻ các cô càng tủm tỉm hơn nữa. Đi chán, trở về xoài ra mảng sàn có trải manh chiếu đêm bốn thằng trai nằm chung có thằng ngủ mơ tưởng đang sờ soạng người tình, nghĩ vẩn vơ, làm sao cho có một ai, làm sao thoát khỏi đám ảnh người chết đen trắng mốc ố sáng chiều không nguôi chiếu ánh nhìn vô hồn lạnh lẽo vào tâm... Hoặc là cô nữ sinh sử học thuê chỗ tầng dưới, cô gái đi dạy kèm về tắm vội vàng trong phòng tắm hở hoác nhiều lần bọn An vẫn đè nhau ghé qua cửa sổ mở hé nhòm xuống thấy đôi vú nhỏ và đôi cẳng chân đầy sẹo đỉa trâu nhiều năm, da không lên lại được. Nhưng cô gái này hình như cũng thường xuyên có một ai đó, vì những đêm tỉnh giấc, bất chợt An còn nghe từ dưới kia lào xào tiếng dắt xe khép cửa như là vụng lén, sợ hãi. Vậy làm sao An có một người nào! Những cô gái ngày ngày An gặp dọc Phố Huế, những cô gái sau shop thời trang mỹ phẩm, những hàng kính mắt, đồng hồ, xe máy, những short ngắn, đùi dài đánh mắt và ăn quà, sao họ có thể để ý An... Rồi bỗng dưng An nhớ ra Huệ. Huệ chủ hàng mỹ phẩm cách quán truyền thần một số nhà, độc thân, ăn bụi, sở hữu thêm chiếc xe máy ngày bán hàng, đêm ngủ trên chiếc giường có che rèm phía sau quầy. Một vài lần đóng cửa hàng, Huệ lân la sang nói chuyện với ông Diểu, ngồi xem và khen An vẽ giống, cô bảo như là chụp nhưng tuyệt hơn chụp. Mới đó, Huệ đưa ông Diểu, ông Diểu đẩy sang An truyền thần một người đàn ông mặc măng tô đứng giữa một biển tuyết trắng. Đó là bố Huệ. Huệ kể vào thời Huệ còn nhỏ, bố Huệ đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô, rồi bỏ mẹ Huệ lấy một cô người Nga ở luôn bên đó không về. Không biết con mẹ kia ghê gớm chừng nào hay bố Huệ ăn phải bả gì đâm ngu si, dại dột. Huệ nói, bố Huệ lầm nên khi chết vì bị đánh ghen, xác người ta thiêu, lọ tro thì gửi theo đường ngoại giao về cho mẹ Huệ. Tất nhiên mẹ Huệ không giữ, bà đã có chồng khác. Huệ phải đem tro bố gửi vào chùa, chỉ giữ mỗi tấm ảnh.

 

An không tính tán tỉnh Huệ nhưng An đi ngang qua Huệ sốt sắng mời ghé chơi, rồi mời uống nước, hút ba số năm hảo hạng, An về còn tặng bộ cạo mặt. Huệ nói chuyện, đầu hơi nghiêng nghiêng, tóc ngang vai xoã xuống bờ vai, hở khỏi viền cổ áo, bàn tay búp măng đặt trên bàn nõn nà như chính cơ thể Huệ. An sang một lần, hai lần, lần thứ ba dẫn Huệ vòng vèo khắp thành phố bằng xe máy Huệ, lần thứ tư thì ở lại với Huệ trên chiếc giường che rèm phía sau quầy. Huệ đã cống hiến cho An toàn bộ năng lực cơ thể Huệ, nhấn An trong những cuồng phong dữ dội mà đầy thèm khát, buộc An, mỗi lần đến là một lần tự nhủ, lần này là lần cuối cùng, rồi tếch đi, nhưng chẳng lần nào tếch đi được. Huệ bảo: Anh vẽ em đi! Thì vẽ. An mang toan, mang màu, đứng trước Huệ với tư thế ăn ốc trả tiền. An không trả tiền Huệ thì tri ân bằng một bức vẽ. Huệ mặc chiếc áo trắng muốt mỏng manh hở hai phần ngực ngồi trong vùng tranh tối tranh sáng của cái phần sinh sống được che chắn đằng sau quầy hàng. Huệ với toàn bộ khả năng kích động làm An đau nhói. Nhưng chưa đủ, An sẽ còn rùng rợn suốt thể xác khi bỗng dưng đối diện Huệ, An vụt thấy Quỳnh hiển hiện tươi mát trinh nguyên và dằn vặt trong dáng vóc Huệ. An cầm lấy cọ vẽ, vẽ cuồng điên u muội như hứng thú tự sát, hối hả tuyệt vọng, sợ khoảnh khắc thôi Quỳnh sẽ biến đi mất. An ngờ đâu từ đó An không chỉ đau đớn tinh thần bởi Quỳnh mà còn đau một cách rõ ràng, một cách vật chất. Trong thời kỳ đầu hồi mới cưới Huệ, có nhiều đêm về sáng bất chợt tỉnh giấc, ham muốn Quỳnh khắc khoải, An dựng Huệ dậy thực thi toàn bộ cảm giác với Quỳnh trên thân xác Huệ. An làm cho Huệ cảm động, nhưng nửa chừng tĩnh trí An bẽ bàng đến nỗi suýt gào lên. Về sau này, khi đã chung đụng quá lâu ngày với Huệ, đã không còn cảm xúc yêu đương nữa, đôi khi để Huệ khỏi giận dỗi, An đành cay đắng mượn đến hình hài Quỳnh, tưởng tượng ra Quỳnh, dù rằng bấy giờ Quỳnh trong tâm trí An cũng không còn là Quỳnh ngày xưa nữa. Dù rằng đấy là Quỳnh tàn tạ võ vàng với hai đứa con và một gã chồng. An mới hiểu, té ra trong đời, một khi đã không thể với Quỳnh nữa thì luôn luôn An vẫn cần đến Quỳnh, không phải như một giá trị để thờ cúng mà như một lừa mị để mà lần lữa sống.

 

An nhìn, khi ngưng cọ trên bức chân dung Huệ, choáng váng trước sự lạ lùng của thần thái bức vẽ, An đã kiệt sức nằm ốm mấy ngày liền. Trong mấy ngày đó, thở khò khè trong góc quán truyền thần, ở xung quanh la liệt ảnh người chết, An mơ thấy mình toàn hoan lạc với ma quỷ. An mơ thấy đúng những gương mặt mà về sau trong salon nghệ thuật của họa sĩ vẽ chân dung số một An gặp lại và chỉ việc vẽ ra. Ngoài chái quán, trên vỉa hè, ông Diểu cắm cúi soi đi soi lại bức vẽ Huệ với những bức truyền thần xưa nay thầy trò hằng vẽ, chối chối rùng mình.  Chỉ Huệ là sung sướng, Huệ lồng chân dung mình trong khung kính treo trên đầu giường như một minh chứng tinh khôi cho những tục lụy về sau, trước khi mang treo hẳn ra quầy mỹ phẩm làm trực quan quảng cáo khởi đầu sự nghiệp danh giá của An.

 

  TTH