*




 

 

Minh bạch lịch sử 

Phạm Xuân Nguyên

 

Bài viết của Trịnh Cung (TC) về “tham vọng chính trị” của Trịnh Công Sơn (TCS) đã dấy lên cả một cơn nổi nóng tập thể của dư luận trong và ngoài nước. Câu hỏi “tại sao viết” và “viết để làm gì” dồn dập chĩa vào Trịnh họa sĩ từ phía những người yêu Trịnh nhạc sĩ để rồi tha hồ phóng lời, phóng tâm mà phỏng đoán, suy luận và quy chụp, chứ không (hoặc ít) xét đoán và chứng minh. Trong cơn phẫn nộ của lý trí, rất ít người biết tách bạch đối tượng mình yêu và chủ thể của đối tượng đó. Đối tượng yêu là nhạc TCS. Chủ thể của đối tượng là con người TCS. Nói cách khác, có một TCS con người tiểu sử và một TCS con người nghệ thuật. Đối với các nghệ sĩ, nhất là những nghệ sĩ lớn, hai con người này gắn bó với nhau, nhưng không trùng khít nhau. Ở đây rất cần có “lý trí của sự phẫn nộ” để nhìn nhận vấn đề sáng rõ và thấu đáo.
 

Âm nhạc của TCS đã thành một sự nghiệp lớn, một bộ phận hữu cơ của đời sống tinh thần văn hóa dân tộc. Điều đó đã là một giá trị, không cần phải bàn cãi, và không thể nào phủ nhận. Con người nghệ thuật của TCS ở đây đã được đề cao và tôn vinh xứng đáng, trước hết và chỉ bởi âm nhạc của ông. Một số người lên tiếng vừa qua đã chỉ ra được điều này. Nhưng từ đó không thể và chưa chắc bảo đảm rằng con người tiểu sử của TCS là nguyên khối, trong suốt, và đơn giản. Đặc biệt khi ông là một nghệ sĩ lớn sống trong một thời đại bi kịch đặc thù của đất nước thì những sự lựa chọn tư tưởng và chính trị luôn đặt ra trong thế giằng co, lưỡng phân. Tôi muốn nghĩ TC viết bài đó dù với bất cứ động cơ nào thì vẫn có một ý muốn là minh bạch lịch sử. Nếu những điều nói ra là hoàn toàn vu khống, sai sự thật thì tác giả phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nhưng nếu những điều đó là sự thật, hay có những phần sự thật, thì sao? 

Minh bạch lịch sử - theo tôi, đó là một đòi hỏi cấp thiết của tư duy nhận thức của chúng ta hiện nay. Minh bạch lịch sử cũng là giải hoặc lịch sử, không để những sự mù mờ, hoài nghi bao phủ quanh những nhân vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử có ảnh hưởng và tác động lớn đến cả cộng đồng có liên quan. Nếu những “tham vọng chính trị” của TCS là có thực (như TC viết: “Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua ”) thì việc phơi bày chúng ra là cần thiết. Thứ nhất, nó xóa đi ảo tưởng của nhiều người vì quá yêu nhạc của ông mà cho rằng con đường đời ông đi là thẳng băng, đơn giản và rõ ràng. (Cách nghĩ này vô tình có thể sẽ làm hại cho chính người được nghĩ vì sự thật bị che giấu sẽ phơi bày chân tướng của người che giấu sự thật). Thứ hai, nó làm sáng tỏ và sâu sắc hơn hành trình sáng tạo của TCS từ con người tiểu sử đến con người nghệ thuật để lại cho đời một gia tài âm nhạc lớn lao. Thứ ba, nó giúp cho việc tìm hiểu các khuynh hướng chính trị, tư tưởng của tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ Sài Gòn thời chiến tranh. Thứ tư, nó góp phần vẽ lại đầy đủ, chi tiết bức chân dung tinh thần của người nghệ sĩ trong cơn biến động lịch sử của đất nước. Những điều nói ra của TC, nếu đúng, không hề làm xấu đi hình ảnh TCS, không hề giảm bớt lòng yêu TCS, không hề hạ thấp giá trị TCS. Không. TCS đã sống như thế. TCS đã viết như thế. Và Việt Nam đã có một TCS sống và viết như thế thành nhạc cho đời, để đời. Trường hợp TCS, nếu như điều TC nói được chứng minh, thì trong những liên tưởng xa gần, có thể khiến ta nghĩ đến trường hợp của nhà thơ Mỹ Ezra Pound (1885 – 1972) và nhà văn Pháp Louis-Ferdinand Céline (1894 – 1961). Cả hai người này đều đứng về phe phát xít trong Thế chiến II, đều bị kết án khi chiến tranh kết thúc. Nhưng những sáng tác có giá trị của họ không vì thế mà bị hạ thấp, bị bỏ ra ngoài lịch sử văn học của dân tộc họ. Họ vẫn được đề cao và tôn trọng ở tư cách nhà văn. Nói đâu xa, Nguyễn Du, Phạm Thái không theo Tây Sơn, triều đại được bây giờ đề cao, nhưng đâu có vì thế mà “Đoạn trường tân thanh”, “Sơ kính tân trang” bị gạt ra khỏi văn học Việt Nam. Minh bạch lịch sử khắc phục lối nhìn lịch sử phiến diện, một chiều, chỉ thấy sáng mà không thấy tối, và ngược lại. Cuộc hội thảo về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn (Thanh Hóa, 10/2008), các cuộc tranh luận về Phan Thanh Giản, Ỷ Lan phu nhân gần đây là những thí dụ tiêu biểu. 

Có một căn bệnh của tâm thức Việt mà nhờ minh bạch lịch sử có thể chữa được. Đó là bệnh thiêng hóa, thánh hóa. (Thực ra, đây là một thuộc tính của tâm thức con người nói chung, nhất là ở những thời kỳ tư duy lý tính chưa được đề cao). Tôi kể một câu chuyện. Cách đây gần hai chục năm, nhà văn Ngọc Giao, người cùng thời với các nhà văn nhà thơ tiền chiến, có viết một đoạn hồi ức kể lại một lần Nam Cao mời các bạn văn từ Hà Nội về quê Lý Nhân (Nam Hà) chơi. Đoàn nhà văn kéo về quê được Nam Cao mời cơm thịt gà tại gia, đang ăn thì nghe nhà hàng xóm chửi mất gà. Bài viết này sau được in vào tập chân dung kỷ niệm của Ngọc Giao “Đốt lò hương cũ” (Nxb Phú Khánh). Lập tức, nhà văn Ngọc Giao bị phê phán kịch liệt. Tạp chí “Tác phẩm mới” của Hội Nhà văn Việt Nam hồi đó trong một số đã đăng liền mấy bài  tập trung lên án tác giả bài viết. Lập luận phê phán chỉ là thế này: một nhà văn như Nam Cao thì không thể làm cái việc “gà qué” thế được. Và Ngọc Giao, cũng như Trịnh Cung vừa rồi, bị cho là người hay bịa chuyện, hay nói xấu bạn bè. Không ai trong những người viết bài lên án Ngọc Giao là người cùng thời Nam Cao, hay có biết ông lúc còn sống. Tất cả chỉ là đọc văn rồi suy ra người. Nhà văn Ngọc Giao đã phải rất đau khổ viết lại một bài “kêu oan”. Ngẫm thế mới thấy Tú Xương tài, cứ nói toẹt ra thói hư tật xấu của mình: “Vị Hoàng có Tú Xương / Dở dở lại ương ương / Cao lâu thường ăn quịt / Thổ đĩ lại chơi lường”. Chẳng biết có phải ông tự trào hay không, nhưng nếu mấy câu đó do ai kể lại thì chắc sẽ lại bị quy kết là bôi nhọ ông tú thành Nam. 

Lại xin kể chuyện nước ngoài để liên hệ với ta. Khi viết chân dung đại văn hào Nga Lev Tolstoy (1828 – 1910), M. Gorki có kể chuyện một lần gặp, ông lão nhà văn hỏi ngay chàng trai mới cầm bút là khoản “chơi gái” có mạnh không. Và trước sự rụt rè của Gorky, Tolstoy rất khoái chí khoe cái sự mạnh mẽ đó của mình. 

Nhà văn Brazil J. Amado (1912 – 2001) ghi lại hồi ức về trường hợp văn hào Trung Quốc Quách Mạt Nhược “bóp ngực” vợ nhà thơ Nga K. Simonov tại Moskova. Cần dẫn ra đây toàn bộ đoạn viết này:
 

Moskva, 1953 

Tại đây đang diễn ra kỳ họp - hay hội nghị toàn thể - nói chung là ban thường vụ Uỷ ban bảo vệ hoà bình họp và Ehrenburg nhân dịp này tổ chức tại nhà mình một bữa tiệc - hay bữa ăn tối - chiêu đãi Quách Mạt Nhược. Ðến dự có khoảng chục người - các nhà văn Xô-viết và nước ngoài.

Quách Mạt Nhược là một người có danh tiếng trên thế giới, một nhà thông thái và học giả, còn ở châu Á nói chung đó là một nhân vật truyền thuyết, một Khổng tử thứ hai: ông biết năm mươi nghìn chữ tượng hình (xin nói rằng để đọc được báo cần phải biết ba nghìn chữ; giáo viên đại học biết bảy nghìn, trí thức - mười nghìn), hai lần làm bộ trưởng khi đại diện cho đảng cộng sản trong chính phủ liên minh Tưởng Giới Thạch, còn bây giờ là uỷ viên Bộ chính trị ÐCS Trung Quốc, đảng này năm 1949 đã lên nắm quyền và tuyên bố thành lập nước CHND Trung Hoa mà ông là phó chủ tịch. Ngoài ra Quách Mạt Nhược còn là phó chủ tịch Hội đồng hoà bình thế giới và Uỷ ban giải thưởng quốc tế Stalin. Ðó là ba trong rất nhiều danh hiệu và tước vị mà ông có thể khoe ra... - có thể thôi, nhưng ông không khoe khoang, bởi vì ông là con người giản dị hiếm thấy, không hề cao ngạo, rất cần mẫn chăm chỉ, đặc biệt rất thích chuyện trò tiếp xúc. Tóm lại, đó là một nhân vật nổi bật trong phe xã hội chủ nghĩa, hay như người ta thường nói, một nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, v.v. Ông đã ngoài bảy mươi tuổi, nhưng nhìn mặt thì không đoán được - tôi cảm thấy người Trung Quốc như không có tuổi. 

Vậy là trong căn hộ của Ilya quây quần quanh cái bàn dài thấp chất đầy các đồ ăn thức uống - thịt cá hồi, thịt cá chiên, các món trứng cá, vây cá nướng, vodka đủ loại, cognac, hoa quả, rượu vang Gruzia và Moldavi - có Konstantin Fedin, Konstantin Simonov, Vsevolod Pudovkin, nhà văn Pháp Vercos, nhà văn Rumani Mikhail Sadovyanu, nhà văn Italia Pietro Nenni và cặp vợ chồng Brazil chúng tôi. Simonov đến cùng với vợ, một phụ nữ rất gây ấn tượng, diễn viên sân khấu và điện ảnh nổi tiếng mà vẻ đẹp Slave điển hình của nàng đã được ông ca ngợi trong văn thơ: chiếc cổ áo hở vai hào phóng cho ngắm nhìn bộ ngực trắng lộng lẫy. Ngôi sao điện ảnh ấy tên là Valentina. Simonov đã viết tặng nàng cả một tập thơ trữ tình đầy dục cảm, nếu không nói là đầy nhục cảm, bị đích thân đồng chí Stalin quở trách: “Các nhà xuất bản tốn tiền in loại sách đó để làm gì, chỉ cần in hai bản cho ông ta và cô ta là đủ!” Valentina lộng lẫy, kiêu sa! Khi nàng mất, Simonov tuy đã chia tay nàng từ lâu vẫn có mặt tại đám tang và đặt lên mộ một nghìn bông hoa cẩm chướng đỏ thắm - một nghìn bông, không kém. 

Quách Mạt Nhược ngồi đối diện với người đẹp và không tham gia vào cuộc trò chuyện vì nàng nói tiếng Pháp, còn ông nói được mười tám thứ tiếng châu Á nhưng lại không biết một thứ tiếng châu Âu nào, trong khi anh phiên dịch tên Lý thì ở ngoài hành lang. Ông chỉ ngồi im nhìn vào cổ áo của Valentina. Ngoài bộ ngực đồ sộ nhô lên như quả đồi kia ông không nhìn thấy gì hết nữa, và vốn là người có học thức ông uống cạn ly rượu vodka đặt trước mặt - uống liền một hơi để trấn an mình. Liuba, bà chủ nhà hiếu khách, lập tức rót cho ông một ly khác. Ông cũng lại uống cạn luôn. 

Cần phải nói rằng ở Trung Quốc bộ ngực phụ nữ, vùng kích thích tình dục chủ yếu, là một cái gì khép kín, bí ẩn và thiêng liêng, nếu không nói là “bất khả xâm phạm” - người ta luôn luôn cố giấu nó đi, thắt buộc nó lại không cho phát triển, tóm lại, đó là một chỗ tuyệt đối kiêng kị. Cho nên không lấy làm lạ là hai nửa quả cầu để hở gần như đến chỏm nằm trong khuôn ngực của chiếc áo nhung đen, do đó mà càng trở nên trắng ngời lộng lẫy, đã hút chặt cái nhìn của nhà thông thái và nhà hoạt động nổi tiếng người Trung Quốc. 

Các vị khách khác không ngờ một tai hoạ sắp xảy ra, vẫn tiếp tục trò chuyện bình thản sôi nổi về văn học nghệ thuật và sực nhớ ra khi đã muộn - cái điều phải đến đã đến. Quách Mạt Nhược, vẫn điềm tĩnh thản nhiên như mọi lúc, dù đã uống nhiều, vẫn không rời mắt khỏi “báu vật Nga” này, đứng lên đi vòng quanh bàn rồi dừng lại sau ghế của Valentina, giơ hai tay ra ôm chặt lấy bộ ngực phơi trần như trình diễn của nàng, chặt đến mức như không bao giờ rời chúng ra nữa. 

Tất cả sững người. Quách Mạt Nhược, vị phó chủ tịch của rất nhiều tổ chức, một nhân vật lịch sử, một người nổi tiếng, đứng đó với hai bàn tay lùa vào khoảng hở trên chiếc áo dài của Valentina bóp chặt đôi vú của nàng - tay trái vú trái, tay phải vú phải - và trên khuôn mặt bất động của ông chậm rãi hiện lên vẻ khoái lạc thần tiên. Những người có mặt lúc đó hầu như hoàn toàn bị tê liệt: chúng tôi chết lặng, mất cả khả năng ăn nói - sự câm lặng như thế kể từ thời khai thiên lập địa chưa bao giờ có và sẽ không bao giờ có lại nữa. 

Nhưng vào khoảnh khắc đầy cao trào kịch tính đó anh phiên dịch tên Lý, suốt nãy giờ không rời mắt khỏi ông chủ, đã từ hành lang chạy vào nắm lấy khuỷu tay ông, kéo ra xa Valentina một cách nhẹ nhàng nhưng cương quyết - nói thế được chăng? - rồi đưa ông ra khỏi phòng và căn hộ. Ilya và Liuba khi đó mới sực tỉnh, vội theo sau để tiễn khách. Cuộc bàn luận văn học nghệ thuật lại tiếp tục từ cái chỗ bị ngắt quãng trước đó một phút, dường như không ai thấy có chuyện gì xảy ra. 

Từ cái buổi tối chấn động đó niềm kính trọng của tôi đối với Quách Mạt Nhược càng lớn hơn, tăng lên vô hạn. 

(Ngân Xuyên dịch từ tiếng Pháp. Jorge Amado. Navigation de cabotage, Gallimard, Paris, 1996).
 

Những trang viết này của Gorky, Amado đã bay khắp thế giới, cả ở Việt Nam, nhưng không thấy có phản ứng gì, cáo buộc gì từ Nga, Trung Quốc.
 

Tôi không gặp TCS lần nào, ngay thấy mặt ngoài đời, dù là đứng từ xa ngó lại, cũng không. Như vậy, tôi biết TCS là bằng vào âm nhạc của ông. Các bài hát của ông, tôi không thích hết cả, chỉ thích một số bài. Và tôi thấy TCS là người “hát thơ”, như Văn Cao nói. Đối với ông, tôi giữ lòng quý trọng, dù ông có hay là không có “tham vọng chính trị”. Với TC, tôi chỉ gặp vài lần mới gần đây, chưa thể nói là quen biết. Trong bài này tôi không nói chuyện bài viết của TC về TCS đúng sai, thật giả thế nào (cái đó tôi chờ sự chứng minh, đối chiếu khách quan, công tâm từ TC đến những người liên quan). Tôi cũng không bàn ở đây chuyện cái tâm, cái tình của người viết (nhưng thú thực nghe sự mắng chửi TC “ngậm máu phun người” tôi thấy gai người). “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Đọc nó, tôi nghĩ đến một vấn đề khác, ở cấp độ nhận thức, như đã nói trên. Đó là: việc tìm về sự thật để minh bạch lịch sử là một việc cần làm ngay trong đời sống chính trị văn hóa xã hội của nước ta hiện nay.

Hà Nội 18.4.2009 

Lên trang viet-studies ngày 7-5-11

 
 

Một sự đau của nhà văn Ngọc Giao 

Phạm Xuân Nguyên

Tôi biết nhà văn Ngọc Giao vào cuối thập niên 80 thế kỷ trước. Những năm 1989 – 1992, Viện văn học hồi đó do giáo sư Phong Lê làm Viện trưởng liên tiếp tổ chức các cuộc hội thảo khoa học về những tác gia quan trọng của giai đoạn văn học 1932 – 1945 mà số phận có nhiều uẩn khúc, thăng trầm. Trong một cuộc hội thảo như thế, có lẽ là trong hội thảo về Vũ Trọng Phụng nhân năm mươi năm mất, Ngọc Giao đã xuất hiện. Ông từ trong cõi im lặng văn chương bước ra (mặc dù ông sống cõi đời ở ngay Hà Nội). Đó là dịp đầu tiên tôi nghe tên ông, bắt đầu đọc văn ông, và tiếp xúc với ông. Dạo đó tôi đang làm việc ở Ban văn học Việt Nam hiện đại, nhà lại ở bên hông cơ quan, nên mỗi lần nhà văn Ngọc Giao đến Viện Văn học ông thường gặp tôi và rồi hay ghé vào nhà tôi. Nhà văn già (khi đó ông đã ngoài tám mươi tuổi) với nhiều nỗi niềm nhân thế, văn chương chôn chặt trong lòng mấy chục năm khuất lấp, gặp thời đổi mới của đất nước được dịp phơi mở, có rất nhiều chuyện muốn nói, cần nói, lại sẵn tôi cũng hay chuyện, ham chuyện, muốn tìm hiểu văn học sử hiện đại một giai đoạn đã qua, thế nên tự nhiên mà nhà văn Ngọc Giao và tôi có một quan hệ bác cháu thân mật. Những lần gặp nhau đều là ông đạp xe từ nhà riêng ở Trung Tự đến 20 Lý Thái Tổ, khi thì ông làm việc với giáo sư viện trưởng, khi thì ông chỉ gõ cửa nhà tôi. 

Trong những cuộc gặp nhau, nhà văn Ngọc Giao hay tặng tôi những văn bản văn học, khi là bút tích bản dịch tiếng Pháp của ông bài thơ “Giã từ” của Xuân Diệu viết trước lúc mất, khi là tạp chí Bông trang của hội văn nghệ tỉnh Sông Bé có đăng bài phỏng vấn nhà văn Nguyễn Đình Thi nói thật những chuyện trắc trở quanh các vở kịch của ông. (Đây là một tài liệu quý, một khoảnh khắc bộc bạch rất thật mình của Nguyễn Đình Thi, nhất là quanh vở kịch “Nguyễn Trãi ở Đông Quan”, mà chẳng hiểu sao hồi ấy một tờ báo ở miền đông Nam Bộ lại hỏi chuyện được ông). Nhưng chủ yếu giữa ông và tôi là trò chuyện. Những câu chuyện ông muốn nói và tôi muốn nghe phần lớn xoay quanh văn học 1932 – 1945 và những văn nhân thời ấy mà ông là một nhân chứng, một đồng nghiệp. Khi đã được xuất hiện trở lại, được in lại những tác phẩm của mình viết trước 1945 và trong thời Hà Nội tạm chiếm, nhà văn Ngọc Giao cảm thấy mình còn được may mắn về cuối đời và trong tâm thế ấy ông nhớ lại các bạn văn thời trẻ đã cùng ông sống và viết trong một thời buổi nhiều hứa hẹn của văn chương nước nhà nhưng cũng nhiều khổ hạnh, tủi nhục của phận người sống bằng ngòi bút trong một đất nước còn nô lệ. Thế thường người già hay hồi tưởng, nhà văn già hay hồi ký nghề văn. Nhà văn Ngọc Giao cũng vậy. Từ tâm thế thương mình tiếc bạn, ở thập niên cuối thế kỷ XX ông đã bắt tay vào viết các chân dung bạn văn. Ý định của ông là phục dựng hết mức có thể trong sự quen biết và hiểu biết của mình những gương mặt lớn của văn học Việt Nam tiền bán thế kỷ XX, khoảng hai mươi người, từ Tản Đà, Phan Khôi, Doãn Kế Thiện, Nhượng Tống, Vũ Bằng, Nguyễn Đỗ Mục, Trúc Khê, Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc đến Trần Huyền Trân, Nam Cao, Nguyễn Bính... Những bài viết ấy được đăng làm ông phấn khởi thấy mình còn có ích, thấy mình trả nợ được bạn bè. Nhân đó một hôm tôi gợi ý ông là có thể làm một tập sách chân dung hồi ký bạn văn của ông. Nhà văn Ngọc Giao nghe vậy tỏ ý băn khoăn không biết có nhà xuất bản nào chịu in không, vả lại ông cũng chỉ mới viết được mấy người, còn thiếu nhiều người đáng viết. Tôi động viên ông là ở tuổi này rồi không thể cầu toàn được, hơn nữa những cái ông đã viết ra cũng đã đủ làm một tập sách mỏng, đủ hấp dẫn bạn đọc, có gì những lần tái bản sẽ bổ sung sau. Dạo ấy tôi nghĩ đến nhà xuất bản Phú Khánh, nơi tôi có những bạn bè quen làm việc, để giới thiệu tập bản thảo của nhà văn Ngọc Giao. Vừa may, tôi nhớ dịp ấy nhà văn Đỗ Kim Cuông từ Nha Trang ghé chơi, tôi đem chuyện này nói, anh nhiệt tình tán thành và đã cầm bản thảo về cho Nhà xuất bản tổng hợp Phú Khánh. Từ đó, tập Đốt lò hương cũ của nhà văn Ngọc Giao được ra đời cuối năm 1992. Ông có viết một lời tựa cho tập sách nhưng không biết vì lý do gì nhà xuất bản không in vào sách. Lời tựa ấy thế này: 

“Sen tàn nghe rốn tiếng mưa thu”

Tôi nghĩ nhiều về câu thơ tâm huyết này của Lý Thương Ẩn danh sĩ thuở Thịnh Đường, khi cố nén tuổi già mệt mỏi viết hồi ký về một số nhà văn có tài có đức đã theo nhau về nơi cảnh ảo. 

Bạn đọc tôi, hãy coi cuốn sách mỏng manh này là một lá sen tàn còn lưu đọng ít nhiều giọt băng giá của buổi thu – đời văn bút của tôi.
 

Sách ra, nhà văn Ngọc Giao mừng lắm. Ông tặng mọi người. Ông chờ phản hồi của độc giả và văn giới. Nhưng một sáng sớm năm 1994, ông gõ cửa căn phòng bé nhỏ của tôi gấp gáp. Tôi nhớ mãi sớm ấy. Trời còn rất sớm, nhà văn già trên tám mươi đã đạp xe từ Trung Tự đến nhà người bạn trẻ ngoài ba mươi để đưa một bản thảo viết tay nhờ gửi đăng báo trần tình một việc văn mà ông bị vu là “dựng đứng”. Nét mặt, giọng nói, cử chỉ, thần thái ông sớm ấy ở nhà tôi toát lên một sự đau đớn khôn nguôi. 

Sự vụ là từ cuốn Đốt lò hương cũ mà ra. Cụ thể là từ bài viết về Nam Cao. Cụ thể nữa là đoạn kể các nhà văn ở Hà Nội kéo nhau về làng Đại Hoàng (Lý Nhân, Nam Hà) chơi nhà Nam Cao, theo sự khởi xướng của Nguyễn Bính. Nhà văn Ngọc Giao có mặt trong tốp bạn văn đó và nửa thế kỷ sau kể lại chuyện Nam Cao bắt trộm gà hàng xóm giết thịt đãi bạn. Ông viết: “Trí thúc chúng tôi: “Uống nhanh lên, ăn mạnh lên. Bữa ăn này không thể kéo dài. Kìa trông trời sắp tối, đó là giờ gà qué lên chuồng. Chủ nó đóng cửa chuồng không bao giờ quên kiểm soát, thấy thiếu con gà trống gáy này thì phải biết, nó réo chửi ba đời bảy kiếp đứa nào ăn trộm gà nhà nó. Trí thở gấp gáp hơn: Các cậu cạn bát, nhai nuốt hết cả thịt rượu đi, rồi tháo ngay ra thuyền tẩu cho nhanh, thoát cái đất chết này. Trong khi ấy, tớ và vợ tớ sẽ mau mau đào hố chôn hết lông gà, lòng gà, xương gà ở gốc bụi tre gai. Nếu chậm, chúng nó kéo vào ngay bây giờ thì nhục nhã lắm... Chúng tôi, không lưỡng lự, làm theo lời Trí, nốc cho nhanh, nhai cho lẹ, chỉ còn trơ mâm gỗ. Trí cả hai tay, vơ vội xương gà bỏ bị, gật đầu chào chúng tôi, nhảy vội xuống sân, biến vội sau bụi tre trong bóng tối đang đổ xuống.” 

Câu chuyện này được nhà văn Ngọc Giao nhớ lại và viết ra đã bị một số người lên tiếng phản đối. Nhà văn Tô Hoàng viết bài “Không thể có chuyện ấy trong cuộc đời Nam Cao” đăng báo Lao Động số ra ngày 14.12.1993. Trên báo này còn một bài viết khác của nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn. Bài của Tô Hoàng đã được tạp chí Tác Phẩm Mới đăng lại trong số 2/1994 ở mục “Ý kiến nhà văn” cùng bài của nhà văn Thanh Châu “Nhân câu chuyện “Nam Cao đãi khách” và của một người ký tên Đào Bích Nguyên “Thật khổ cho ông Nam Cao”. Những ý kiến phản đối Ngọc Giao đều cho ông “bịa đặt hoàn toàn không phù hợp với tính cách và phẩm giá của Nam Cao như mọi người từng biết” (Tô Hoàng). Bữa ăn đó của mấy bạn văn Hà Nội ở nhà Nam Cao tại làng Đại Hoàng không phải như Ngọc Giao kể, mà là thế này theo lời kể của bà vợ Nam Cao cho nhà thơ Bế Kiến Quốc được báo Văn Nghệ cử xuống Nam Định hỏi rõ sự tình: “Thấy bạn văn thơ về chơi, thầy giáo Trí nói với vợ: “Có mấy anh về thăm, muốn uống một bữa rượu. Thế mợ có chạy được thức gì không?” Bà giáo đáp: “Đầy đủ tuốt. Anh không phải lo gì cả!”. Bà quả phụ Nam Cao còn nhớ bà đã giết ba con gà, hai con luộc để nhắm rượu, một con nấu cháo vì Nam Cao bảo bà, sau bữa rượu đám bạn thơ, bạn văn rất thích ăn cháo gà. Bà Nam Cao kể, bà còn mua thêm hai cân thịt bê thui. Rượu ngon có tiếng của vùng Đại Hoàng thì mua ở nhà ông Trương Thống. Khách uống hết lít đầu không ăn thua gì, bà mua thêm lít nữa. Khách vẫn chưa say, bà lại mua lít thứ ba...” (Dẫn theo bài của Tô Hoàng). 

Biết thế nào giữa hai người, nhà văn Ngọc Giao và bà quả phụ Nam Cao? 

Cả hai người đều có thẩm quyền kể chuyện này, vì là vợ và bạn Nam Cao, mặc dù trong hồi ức của Ngọc Giao về cuộc chơi nhà Nam Cao thì vợ nhà văn không có mặt, chỉ có mấy anh em bạn văn thơ ngồi ăn với nhau. Cùng một sự việc được kể hoàn toàn trái ngược nhau, một bên là bắt trộm gà, một bên là đầy đủ các món mua về, hết thì lại mua. 

Chúng ta, những người đọc, nhất là những người đọc chỉ biết văn Nam Cao mà không biết ông trong đời, không có thẩm quyền phán xét đúng sai ở đây. Tin hay không tin, người đọc chỉ có quyền ấy. Người không tin thì bảo Nam Cao viết văn hay nên là người tử tế. Nhà văn ai lại làm thế! Nhà văn như Nam Cao ai lại làm thế! Như vậy nói Nam Cao trộm gà đãi bạn là dựng đứng chuyện để xúc phạm nhân cách một nhà văn đáng kính. Người tin thì bảo chuyện này nếu có cũng là thường, cũng không ảnh hưởng gì đến văn Nam Cao và thái độ của độc giả đối với văn chương của ông. Không phải cứ người viết văn hay là người sống mẫu mực ở đời, và ngược lại, cứ người sống phóng túng phóng đãng ở đời thì không có văn hay. Văn và người không phải bao giờ cũng trùng khớp nhau, thậm chí có khi trái ngược. Điều này Hoài Thanh đã có nói đến khi làm tuyển Thi nhân Việt Nam: “Có người thơ tuyệt đẹp mà đối với tôi lại toàn những cử chỉ rất mực xấu xa. Họ phũ phàng, họ nhỏ nhen... Nhưng thôi, tôi nói ra làm gì. Những cử chỉ xấu kia là bề ngoài; phần sâu sắc nhất trong tâm hồn họ đã ghi lại nơi những vần thơ đẹp. Trái lại có những nhà thơ tử tế với tôi vô cùng mà thơ của họ tôi lại chỉ thích... có hạn”.

 Thẩm quyền phát ngôn, xin nhắc lại, trong chuyện này là ở nhà văn Ngọc Giao và bà quả phụ Nam Cao. Họ sống bên cạnh nhà văn. Và thẩm quyền đi cùng trách nhiệm, những phát ngôn có thẩm quyền của họ buộc họ phải chịu trách nhiệm về tính xác thực của chúng. Còn người đọc không biết người thì xin đừng suy từ văn ra người, rồi lấy cái người suy đó áp cho người thật. 

Tôi đã hơn một lần dẫn ra trường hợp nhà thơ lớn Trung Quốc Quách Mạt Nhược sờ vú vợ nhà thơ lớn Liên Xô K. Simonov ngay trước mặt nhiều văn nhân nổi tiếng thế giới tại bữa tiệc ở nhà I. Erhenburg giữa thủ đô Moskva khi ông sang dự họp Hội đồng hòa bình thế giới (1953). Ai kể lại chuyện này? Xin thưa: nhà văn lớn Brazil Jorge Amado (1912-2001), người có mặt tại bữa tiệc, đã kể lại chi tiết trong cuốn hồi ký “Hải trình ven bờ” (Navigation de cabotage, Gallimard, Paris, 1996) của mình, và kể xong ông đã công khai bày tỏ lòng ngưỡng mộ người đồng nghiệp Trung Quốc qua hành động đó. Cuốn hồi ký của J. Amado xuất bản năm 1992, được dịch ra nhiều thứ tiếng, không thấy gia đình Quách Mạt Nhược và chính quyền Trung Quốc lên tiếng kiện cáo, phản đối; quan hệ bang giao Trung Quốc – Brazil cũng không vì hành động “sờ vú” của một  phó ban thường vụ quốc hội, một tên tuổi văn hóa lớn Trung Quốc được nhà văn Brazil kể lại thích thú mà bị trục trặc. Tôi đã trích dịch cuốn hồi ký của J. Amado trong đó có đoạn nói về Quách Mạt Nhược và đã đăng báo Tiền Phong nhiều kỳ cách đây hơn mười năm, chỉ thấy bạn đọc thích thú, không thấy có sự cố gì gây hại cho văn chương và ngoại giao nước nhà.

 Trở lại buổi sớm đầu năm 1994 nhà văn Ngọc Giao gõ cửa nhà tôi. Ông đưa tôi một tệp giấy gập đôi theo chiều dọc. Đó là hai văn bản nhưng chung một nội dung. Hai văn bản đều do nhà văn Ngọc Giao tự viết tay và có lưu lại những chỗ ông sửa chữa câu chữ. Văn bản thứ nhất là bài viết của nhà văn nhan đề “Vẫn chuyện dựng đứng về Nam Cao”, nói lại ý kiến của Nguyễn Mạnh Tuấn trên báo Lao Động: “Tôi chưa được đọc bài ông Tô Hoàng, nhưng đoán rằng nội dung cũng nghi ngờ lòng chân thật của tôi giống bài ông Nguyễn Mạnh Tuấn, Vậy, tuy mỏi mệt, buông bút ít lâu nay, tôi cố gắng ngồi viết những dòng này thanh minh tấm lòng mình, đồng thời cải chính mấy điểm hiểu sai tôi trên cả hai bài báo.” Văn bản thứ hai cũng mang đầu đề ấy, nhưng có mở ngoặc (thư ngỏ gửi nhà văn Bùi Việt Sơn, tạp chí Lao Động - ở đây Ngọc Giao nhầm báo thành tạp chí). Mở đầu thư ông cho biết đã thân đến tòa soạn trao cho Bùi Việt Sơn bản thảo bài viết “Vẫn chuyện dựng đứng về Nam Cao” nhưng chưa thấy đăng nên ông có thư ngỏ này nói tiếp chuyện cho rõ ràng hơn nữa: “Tôi tha thiết yêu cầu anh, vì văn học, vì thành tâm với một đồng nghiệp già đang đứng trước cửa mồ, đề đạt ý tôi với ban biên tập đăng bài tôi đã đưa anh. Độc giả sẽ nghĩ thế nào về tôi khi họ thấy anh Mạnh Tuấn, Tô Hoàng, với hoài nghi chủ nghĩa, buộc không luận cứ gì chính xác, coi tôi là lão cuội. Anh đã điện cho tôi sáng qua (17/1) rằng sẽ tùy tổng biên tập ở Sài Gòn. Nếu đăng bài tôi ngay, sợ sai tôn chỉ Lao Động. Nó là tạp chí thông tin, không phải là tạp chí văn nghệ. Tôi rất ngạc nhiên. Nếu ban biên tập đã chủ trương như vậy thì cũng không nên đăng bài của hai bạn Tô Hoàng, Mạnh Tuấn”.

 Nhà văn Ngọc Giao đau trước hết vì người ta cho ông là dựng đứng truyện về nhà văn Nam Cao, thứ đến là người ta không đăng bài ông nói lại. Chính vì báo Lao Động không đăng bài phản hồi của ông nên ông mới gấp gáp đưa cho tôi để nhờ tôi có thể tìm được chỗ nào đăng lên. Tạp chí Tác Phẩm Mới cũng chỉ đăng bài phê phán Ngọc Giao mà lẽ ra có thể làm một bài phỏng vấn ông, cho ông có dịp trình bày thực hư câu chuyện, khi trụ sở tòa soạn tạp chí ở 65 Nguyễn Du chỉ cách nhà ông ở Trung Tự một đoạn đường.  Hai tờ báo và tạp chí khởi chuyện rồi cũng im lặng luôn. Còn nhà văn Ngọc Giao thì đã không được nói lại và đành ngậm đắng nuốt cay mang theo sự đau của mình xuống mồ.

 “Bài viết hồi ký về Nam Cao, tôi viết một hơi một buổi tối mùa hè, hết bài thì hết một tuần nhang. Thưa các bạn, cái từ “dựng đứng lên” đã khiến tôi muốn khóc. Già rồi, nước mắt dễ ứa ra. Tôi xin lấy lương tâm một cây bút già nua mà thề bên linh hồn năm bạn xấu kiếp của tôi là Nam Cao, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, Nguyệt Hồ: câu chuyện bữa cơm cay đắng ấy là chuyện thật, trăm phần trăm thật. Chuyện đời, thường có những chuyện quá thật đến thành ra không thật (trop vrai pour être vraisemblable). Câu chuyện lũ chúng tôi rủ nhau về Đại Hoàng do Nguyễn Bính khởi xướng đúng như tôi viết trong bài về anh Trí, đơn giản có thế thôi. Một lần nữa, thưa các bạn, tôi cần nhắc lại rằng, trong các bài hồi ký của tôi, viết về Lan Khai, Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng, v.v..., tôi thường tha thiết, chân thành: “Xin bạn đọc, đọc tôi hãy tin tôi”. Viết hồi ký, người già không biết nói dối, không xuyên tạc, không hư cấu, chỉ lo không đủ sức nói được ra hết sự thực về cuộc đời của bọn hàn sĩ khốn cùng, viết khôn mà sống dại. Tôi chịu trách nhiệm với lịch sử văn học, với người chết và người sống” (nhấn mạnh của tôi – PXN).

 Cho đến hôm nay, nghĩa là sau gần hai mươi năm tập sách Đốt lò hương cũ ra đời và sau mười bốn năm nhà văn Ngọc Giao qua đời, trong ngày kỷ niệm một trăm năm sinh của ông, tôi muốn nhắc lại sự đau này của ông từ hai văn bản tôi được ông trao cho. Không phải để minh oan cho Nam Cao hay biện hộ cho Ngọc Giao. Hai ông không cần điều này, nó không làm xấu ai cả. Tôi cũng nói ngay Nam Cao trong tôi là một nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, văn ông tôi luôn thích. Tôi đưa lại chuyện này hôm nay là để nói chúng ta phải thay đổi lối tư duy thần tượng hóa, thần thánh hóa. Phải giải hoặc tư duy. (Tiện thể xin nhắc một trường hợp gần đây. Năm 2009, họa sĩ Trịnh Cung viết bài kể chuyện trước 1975 nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã có lúc có “tham vọng chính trị” muốn bước vào chính trường Việt Nam Cộng Hòa. Bài viết khiến nhiều người nổi đóa vì họ cho Trịnh họa sĩ đã bôi xấu Trịnh nhạc sĩ, “thần tượng” của họ. Nhân dịp đó tôi đã có bài viết nhan đề “Minh bạch lịch sử” đăng ở tạp chí Thế Giới Mới, trong đó tôi cũng đã liên hệ đến trường hợp này của nhà văn Ngọc Giao và dẫn ra chuyện Quách Mạt Nhược nói trên).

 Giải hoặc tư duy ở quan hệ văn và người. Không ai biện hộ cho thói vô đạo đức của người văn trong cuộc sống, nhưng không thể lấy đạo đức mà đo văn chương. Cũng vậy, người viết hồi ký luôn đề cao tính chân thực, nhưng tính chân thực đó được bảo đảm bằng sự tin cậy của các quan hệ riêng tư, cá nhân và sự tham dự trực tiếp của người viết với các nhân vật và sự kiện được nói tới. Tính chân thực tin cậy đó là thông qua sự trải nghiệm cá nhân. Người sau đọc Ngọc Giao kể Nam Cao trộm gà đãi bạn không phải là người trong cuộc, không phải là người biết Nam Cao ngoài đời, chỉ đọc văn ông mà nghĩ ông không thể có hành vi ấy, thế là la lên Ngọc Giao viết sai, viết bậy. Hỏi ngược lại người ấy vì sao, khi hắn không biết gì về Nam Cao, chắc câu trả lời là văn thế nào thì người thế ấy! Đó là một kiểu tư duy đáng ngại. Điều này là rất quan trọng khi ta còn có một bộ phận văn học mà nếu xét người thì dễ loại văn.

 Hơn nữa, chính cách suy xét cảm tính và hồ đồ này là một nguyên nhân khiến trong văn học Việt Nam, thể hồi ký, tự truyện không được phát triển. Hẳn mọi người còn nhớ các hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều của nhà văn Tô Hoài, tự truyện Lê Vân yêu và sống của diễn viên Lê Vân đã vấp phải những phản ứng thế nào dưới góc độ cứ luận người mà suy, bất chấp các tác giả nói chuyện từ thẩm quyền và kinh nghiệm của họ. Cho nên nghệ sĩ nhân dân Thanh Hoa đã thôi ngay ý định viết hồi ký đời nghệ thuật của mình, vì sợ hãi những điều thật mình đã sống, đã trải, kể ra lại động người này chạm người khác và lại bị búa rìu dư luận cho là vu khống, dựng đứng. Ngay mới đây thôi, dịp kỷ niệm 10 năm mất Trịnh Công Sơn (lại họ Trịnh!), người yêu Dao Ánh của ông trao cho gia đình nhạc sĩ ba trăm bức thư tình của hai người  viết trong mấy chục năm qua và cho phép xuất bản. Tập sách Thư tình cho một người in ra đã có những ý kiến rằng là lợi dụng tên tuổi người nhạc sĩ nổi tiếng để kinh doanh, rằng làm thế là không đúng về mặt đạo lý, tình cảm khi công khai chuyện riêng tư của một người, nhất là người đó lại đã mất. Những người nói vậy quên rằng trên thế giới đã có nhiều tập thư từ của những người nổi tiếng mất đi được người thân, bạn bè công bố và xuất bản, cả bán đấu giá. Như ở Pháp, con gái của Simone de Beauvoir (1908-1986) đã cho xuất bản các bức thư của mẹ mình viết cho người tình là nhà văn Mỹ Nelson Algren trong suốt mười bảy năm (1947-1964) với nhan đề Thư gửi Nelson Algren. Mối tình xuyên Đại Tây Dương (Lettres à Nelson Algren. Un amour transatlantique, 1997). Bởi một lẽ đơn giản, đối với những người nổi tiếng, các tài liệu của họ và về họ đều cung cấp thêm những hiểu biết về cuộc đời và sự nghiệp của chính họ, về xã hội và thời đại mà họ sống, do đó chúng là một nguồn tư liệu cần thiết cho việc nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá một nhân vật lịch sử, một thời đại lịch sử.

 
Hai văn bản nhà văn Ngọc Giao trao tôi buổi sớm đầu năm 1994 là muốn được đăng báo giãi bày sự thật và tấm lòng. Ở văn bản phần hai, ông có nhận xét về những người nói lại ông. Đối với người cùng thời ông sống, nhà văn cảm ơn bạn già Mai Lĩnh tiên sinh: “Cụ cũng có vài lời nghiêng về cái vô tâm vô tội của tôi đối với Nam Cao. Tôi xin nhờ anh Sơn chuyển lời tôi chân thành cảm ơn cố nhân Mai Lĩnh của tôi. Bác Mai Lĩnh ơi, “bác già, tôi cũng già rồi”, chúng ta đã sống một thời, và giờ đây chúng ta cũng sắp rủ nhau “đi”. Chúng ta đã sống quá nhiều, đau đớn quá nhiều rồi, nên dễ hiểu nhau, dễ thương nhau...” Còn về bài của Thanh Châu “Coi tôi là lầm lẫn, mặc dầu tuổi ông với tôi cũng ngang nhau. Khôi hài! Ông già này bảo ông già kia là lẩm cẩm. Những dòng ông viết ngấm ngầm dấu diếm một nỗi tị hiềm tôi không tiện nói ra đây. Tôi chỉ cảm thấy xót xa tình bằng hữu thâm giao giữa ông với tôi cùng dắt tay nhau vào nghề văn bút từ 1929. Đọc bài ông, tôi chỉ mỉm cười, thương bạn.” Đối với người lớp sau, nhà văn nhận thấy “Anh Mạnh Tuấn viết về tôi với giọng văn nhẹ nhàng, nhã nhặn, coi như nhắc một chuyện vui, không hề có chút gì ác ý. Rất cảm ơn anh.” Còn về bài của Đào Bích Nguyên: “Tác giả là một anh son trẻ nào đó tôi không còn muốn nhớ. Anh nói những điều quái dị, quá ư xấc xược và vu khống. Nhưng tôi không bận ý. Tôi tha thứ những lời thóa mạ vu khống đó đối với một người già. Anh cứ tiếp tục sống đi, viết đi. Rồi đây anh sẽ hối tiếc nhiều. Ông cha đã dạy: “Lời nói đọi máu”. Vu khống là một thói hèn, người cầm bút có kiến thức, có đạo lý, không nên phạm.”

 Sự đau của nhà văn Ngọc Giao đã theo ông về bên kia thế giới. Chuyện bài viết của ông về Nam Cao có thể khép lại ở đây. Nhưng vấn đề gợi ra từ đó như tôi đã nói là một vấn đề tư duy thì còn để chúng ta suy nghĩ được nhiều. Tôi chỉ tiếc là sau vụ việc đó nhà văn cảm thấy buồn phiền, đau đớn, cộng với tuổi cao sức yếu, khiến ông chán nản không thực hiện được ý định làm cuốn Đốt lò hương cũ II, trong đó ông tính viết cả về hai nhà văn, nhà báo ở Sài Gòn đầu thế kỷ XX là Phan Văn Hùm và Bùi Quang Chiêu. Một nguồn tư liệu văn học sử qua ký ức của người trong cuộc vì thế cũng đã không được viết ra và lưu giữ. Đó quả cũng là một thiệt thòi đáng tiếc cho người đọc và văn giới.

 
Hà Nội, cuối tháng 4.2011

 Lên trang viet-studies ngày 6-5-11