gau
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách

ĐIỂM SÁCH



Thời Đại Hoàng Kim Của Hận Thù

Tôi [Charles Simic], biết tới tên Norman Manea lần đầu, vào năm 1991, khi đọc bài của ông trên tờ The New Republic, viết về quá khứ phát xít nhưng được giấu nhẹm, của Mircea Eliade, môt học giả nổi tiếng của Romania về tông giáo so sánh [comparative religion] và là tác giả của những tác phẩm thật có uy tín như Shamantism, và A History of Religious Ideas: From the Stone Age to the Eleusinian Mysteries. Nhưng chuyện đó thì tôi đã biết.

Vào  năm 1972, cùng người bạn là Vasko Popa, một nhà thơ Serbian gốc Romanian, chúng tôi có gặp gỡ triết gia Émile Cioran ở Paris. Chúng tôi ngồi đấu láo cả buổi chiều trong căn hộ của ông, rồi đi lang thang tại những khu vườn Luxembourg, Vào buổi tối, có them Mircea Eliade, và cả bốn đi xơi cơm tiệm. Câu chuyện lúc thì bằng tiếng Romania, lúc thì tiếng Anh, tôi nghe câu đực câu cái, thành thử chẳng hiểu mấy ông tướng đó nói gì. Sau đó, tôi hết sức kinh ngạc, khi được Popa cho biết, Cioran và Eliade là phát xít, khi còn trẻ.

Vasko, một tay một đời CS [lifelong Communist], và một lòng một dạ với nó (a true believer). Nhà thơ bật mí tiếp, Ciroran thì đã rũ sạch nợ quá khứ phát xít tại…  sông Tiền Đường rồi! Trong khi Eliade thì vẫn thầm thà thậm thụt, [nguyên văn: Eliade có lẽ vẫn kín đáo có cảm tình với nó: still a secret sympathizer].

Tôi nhớ đã hỏi ông một câu hỏi thật là ngớ ngẩn: tại sao ông lại kết bạn với mấy tay như vậy, và nhà thơ, rõ ràng là phật lòng, trả lời, nếu ông ta có đưa ra một câu trả lời, tôi cũng vẫn chẳng hiểu nổi. Tôi đành bỏ qua, mãi tới khi đọc bài của Manea trên tờ báo nói trên.

Bài viết 5 năm, sau khi lưu vong. Manea được học bổng của Tây Bá Linh vào năm 1986. Nhờ vậy ông có thể đi chu du thiên hạ, nhưng không áo gấm trở về làng Romania. Tới Mẽo năm 1988. Dịch khá bộn, viết fiction khá nhiều, tiểu luận chẳng kém. Không hề được quê hương chụp cho cái nón li khai, mà cũng chẳng hề được CS ban cho danh hiệu là một trong những tác giả được nhà nước chấp thuận. Sau khi bài viết xuất hiện, ông bị đập tả tơi, tại quê hương, bởi vì sau khi chế độ độc tài của Ceausescu sụp đổ, Eliade và Cioran trở thành hai vị anh hùng chống Cộng tầm cỡ toàn quốc gia. Trên tờ Los Angeles Times có bài viết, đả kích ông thật nặng nề, và cũng thật phi lý, là đã từng bồ bịch với hai ông trên, và thuộc giới trí thức mê phát xít thập niên 1930.

Trọng điểm bài viết của Manea là: một tự vấn mang tính phê phán quá khứ là một cách thức tốt nhất, để chống lại ý thức hệ toàn trị, và một tự vấn như thế giản dị đã bị bỏ qua. Chẳng có một sắc dân nào trên thế giới lại nghe về những chiến công quỉ ma của họ, về việc làm cỏ những sắc dân khác, chẳng hạn, và dân Romania thì cũng rứa.

Nhưng so với những thế kỷ trước, thì thế kỷ 20 là số một, trong cái việc làm thịt vô tội vạ, vô kể số, những con người vô tội, những sắc dân khác. Chưa bao giờ lại có nhiều những giai cấp trong xã hội bị coi là chắng có chút giá trị nội tại – nghĩa là chẳng đáng là người – và như thế, chẳng có quyền sống ngơi ngơi kế bên những đẳng cấp người cao hơn, là những sắc dân da trắng, mà trắng thì cũng phải thuộc thứ thuần chủng Đức, thí dụ vậy. Cuộc làm sạch những sắc dân có mầu da không hợp mắt như thế, sở dĩ trong những thế kỷ trước đó, không đạt tới đỉnh cao như thế kỷ 20, là do điều này: thế kỷ 20 đã hỗ trợ cho cái việc giết người tập thể đó, bằng những tư tưởng sặc sụa máu, rằng những biển máu như thế là được phép, vì một ngày mai ca hát…  Có một lý thuyết rằng lịch sử sẽ tha thứ cho mọi tội ác, vì hạnh phúc tương lai của nhân loại, đó là một khởi đầu hứa hẹn, nhưng chẳng bao giờ là đủ. Điều đòi hỏi còn lại, là làm sao biến hàng hàng lớp lớp con người lao vào hành động, biến tri thành hành, biến giấc "đại mộng" thành hiện thực: Thế kỷ 20 đã làm được như vậy. và một trong những con người chứng kiến tận mắt cuộc cách mạng máu trên, là Norman Manea. 

Những tay côn đồ trở lại, của Manea là một hồi ký của một tâm hồn hỗn loạn, a memoir of a troubled soul.

Bắt đầu bằng một quyết định cứ bị trì hoãn tới, trì hoãn lui: trở lại quê hương Romania ngày nào CS của ông. Và nó được thực hiện – nghĩa là hồi ký bắt đầu, vào năm 1997, và kết thúc, bằng những miêu tả của ông, về 9 ngày ở đó. Ông nhức nhối [agonize] về chuyến đi. Bao nhiêu nỗi sợ ông đã tưởng bỏ lại được, ở phía sau, chúng trở lại hành hạ ông. Mục đích độc nhất của chuyến đi: thăm mộ bà mẹ, ở nơi thành phố ông ra đời. Ông chẳng còn một bà con nào ở quê hương. Ông cụ thân sinh, ở viện dưỡng lão tại Jerusalem. Ông không đi một mình, mà với một người bạn Mỹ, nhạc trưởng dàn nhạc hòa tấu, nổi tiếng, sẽ chơi một buổi tại Bucharest. Ông tới không báo trước cho một ai, và một khi ở đó, từ chối mọi phỏng vấn. Tại phi trường Frankfurt, khi lên máy bay trực chỉ Romania, ông tự hỏi, liệu những hành khách thật là bình thường kia thực ra là những nhân viên [agents] của đảng cướp mới [the new mafia], hay là những cựu mật vụ [old secret service]. Tới nơi, những nhức nhối, dằn vặt của ông tiếp tục. Không khí xa lạ [alien], ông, chính ông, một kẻ lạ. Những bộ hành, những kẻ lạ.

“Tôi băng qua đường tới rạp chiếu phim Scala. Kế bên rạp là dẫy nhà Unic, nơi này, bà cụ sinh ra Cella đã từng sống, cho tới khi cụ mất. Tất cả đều như vậy, vậy mà, tất cả đều không phải như vậy…. có một điều gì ở đây, như thể sau một cơn nội xuất huyết”…