*


Dịch Thuật



Don Quichotte đến Tanger

 Tahar Ben Jelloun – Le Monde diplomatique 08-2005 - Lan Nguyễn dịch

 Ngày xưa có một nhà sử học già dặn chín chắn. Ông tên là Benengeli. Bạn bè gọi ngắn gọn là Ben. Và cũng để cho tiện khi kể câu chuyện này, tôi cũng gọi ông là Ben.

 Vào một buổi sáng đẹp trời, khi mà thời gian chẳng mang một ý nghĩa nào, Ben đi bộ đến mũi Spartel. Ông nhìn ra đại dương và thấy gió đang làm đổi màu mọi sự. Ngọn núi như già đi, nó giống như con lạc đà bướng bỉnh. Các căn nhà như sụp xuống. Duy chỉ có thời gian là thản nhiên với gió, với tính khí thay đổi của con người. Bầu trời hình như cũng xa lạ, cơn gió mạnh phía đông làm cho mây xô dạt tứ phía. Thành phố Tanger sẽ như thế nào nếu không có ngọn gió đông đến làm sạch đường xá và làm dịu các ánh nhìn. Gió thanh lọc không khí đầy muỗi và ruồi, mấy thứ làm cho con người bị đau đầu và làm đảo lộn mọi thứ trật.

 Ben đứng thẳng, đối diện với triền núi Tây Ban Nha. Hôm nay trời nắng chói nên người ta có thể thấy rõ triền núi này. Ông đứng đó, ở cực bắc Phi châu, đúng nơi triền Địa Trung Hải và Đại Tây Dương gặp nhau. Trước mặt là Tây Ban Nha. Người Tây Ban Nha vừa thức tỉnh. Tất cả bọn họ đi ra ngoài để nhìn Nhà Thông Minh Tài Ba Hidalgo Don Quichotte de la Manche. Ngài Miguel de Cervantès vừa trở lại thành phố. Cuộc du hành của ông kéo dài hàng thế kỷ. Ông đã đi qua những vùng đất vô định, đã chiến đấu không biết bao nhiêu trận đấu, đã cứu không biết bao nhiêu đàn bà con trẻ, bị đi lạc rồi tìm ra được, ông đã làm sống lại các câu chuyện hiệp sĩ đời xưa và được những người vô danh, ẩn danh viết không biết bao nhiêu là nguyên âm phụ âm, bao nhiêu là chữ với hàng ngàn trang viết, hàng ngàn quyển sách, những quyển sách còn sót lại sau các trận đốt sách.

 Dáng dấp vẫn còn thanh cảnh, tấm lòng vẫn còn hào hiệp như cái ngày đầu tiên ông tự cho mình sứ mạng bảo vệ công chính cho loài người. Ngày hôm đó, một con muỗi Ấn Độ bay đến chích ông. Người thì nói con muỗi đó màu đỏ, người thì nói con muỗi đó màu xanh nhưng dù xanh hay đỏ, con muỗi đó là một con muỗi độc. Ông vùng mình đứng dậy, ông mặc áo hiệp sĩ, loại áo xuất xứ từ một căn làng mà chẳng còn ai nhớ nó tên gì, ông quyết định mình sẽ là người đi sửa sang lại tất cả các bất công.

 Tự tin, bước đi chắc nịch, mắt nhìn thẳng, không một xu trong túi, ông kê ra một vài tật xấu mà ông thề là phải đi chiến đấu cho bằng được. Một công việc tày trời! Cần phải sống rất nhiều đời mới hoàn tất công việc cao quý này! Cần phải có một trí tưởng tượng phong phú, một lòng quảng đại bao la, một ơn kiên nhẫn vô bờ mới mong đi đến đích. Ông Trời bằng lòng cho ông một đời sống vĩnh cửu. Ông xứng đáng được Trời ngó mắt đến để đi sửa sang lại những gì ông Trời – nhưng đôi khi là Quỷ – đã làm trên con người.

 Ông ngấu nghiến không biết bao nhiêu sách vở đến mức ông bị bội thực. Ông nhồi nhét vào đầu không biết bao nhiêu là câu thơ bài văn, những câu thơ bài văn toát ra hương thơm của một chuyến phiêu lưu, của những chuyện hoang đường. Phải chạy theo ông mới mong bắt kịp lối nói, mới thấu hiểu những gì ông nói. Ông dùng các bìa sách cứng để làm một cái gươm. Một vũ khí tượng trưng. Một loại vũ khí giả bộ.

 Ben ngồi chờ. Ông biết rồi thì Ngài de Cervantès sẽ đến Tanger vào cuối mùa hè này. Tại sao ông ta lại đến thành phố ủ dột lỗi thời này, thành phố với những huyền thoại và những câu chuyện hoang đường dởm, một thành phố mà du khách lưỡng lự khi đến? Bởi vì Tanger là thành phố từng một thời được tất cả các quốc gia đến cắm dùi, người thì trồng một cây, người thì mở sứ quán cho các điệp viên hạng tồi hay các văn sĩ nát rượu. Bởi vì Tanger đã sống một thời kỳ thịnh vượng hào nhoáng, từng có những buổi trình diễn kịch nghệ ở kịch viện nằm giữa bức tường Lười Biếng và chợ cá, một kịch viện huy hoàng với mặt tiền tráng lệ, một kịch viện biến thành phòng chiếu phim chiếu các loại áo hở ngực của các phụ nữ hy lạp đời xưa và những phim kinh hoàng trên những màn ảnh vàng ố không còn màu trắng trinh nguyên, một phòng chiếu tối thui, nơi các tình nhân có thể vừa liếc mắt xem phim vừa tự do làm tình... Kịch Viện Cervantès!

 Dưới áp lực của một vài người dân Tanger đau khổ nhìn tình trạng xuống cấp của kịch viện, Ben bằng lòng viết một bức thư cho Nhà Quý Tộc de Cervantès xin ông thân hành đến Tanger để xác nhận tình trạng xuống cấp của kịch viện mang tên ông. Hy vọng cuộc viếng thăm này sẽ thúc đẩy những người có trách nhiệm sửa sang lại. Lần du hành này không phải để minh oan cho một bà, cứu mạng sống một đứa trẻ nhưng là cứu một căn nhà, một kịch viện từng được xây một cách nghệ thuật nhưng bây giờ bị bỏ quên, bị coi thường, bị chê bai.

 Ben rất xấu hổ khi phải làm phiền nài xin vị hiệp sĩ để mắt đến một kịch viện điêu tàn... Dân bụi đời đến đây phóng uế. Mùi hôi thối xông đến tận con đường Pasteur ngang qua khách sạn El Minzah, khách sạn này lại cũng là một nơi huyền bí nhưng giờ cũng xuống cấp kể từ ngày chủ cũ của nó bán cho một triệu phú người Irak, ông này làm giàu dưới chế độ Saddam Hussein! Thật nhục nhã. Bởi vì mấy con chuột đã chọn kịch viện làm nơi thường trú. Tối nào chúng cũng diễn kịch ở đây, nhân vật của chúng là những con người bông đùa cợt nhả, bẩn thỉu, bất xứng. Mấy con chuột ký hợp đồng với mấy con chó hoang, mấy con chó có lẽ đã kiệt sức vì bệnh dại. Chuột cho chó ăn, bù lại mấy con chó này không được lảng vảng ở chốn văn hóa cao cấp này, sợ truyền bệnh dại.

 Nhưng Ngài de Cervantès không nhất thiết phải biết tất cả chi tiết này. Ông phải đến Tanger, có ông bạn Sancho Panca tháp tùng, ông này thỉnh thoảng kiếm được việc làm trong đoàn hát xiệc Sao Xanh, ông giữ nhiệm vụ “sửa sai những sai lầm”, các sai lầm của thú vật thuộc một loài trung gian giữa khỉ và người. Sancho có rất nhiều việc để làm vì càng ngày càng có nhiều sai lầm không ngừng tác hại đến xứ sở.

 Ben cũng làm nhiều việc. Ông chuẩn bị cuộc du hành và nhất là chuẩn bị cuộc đón tiếp cái người mà lúc thì ông gọi là Miguel de Cervantès, lúc thì ông gọi là Don Quichotte. Ben mất rất nhiều năm để dịch quyển Nhà Thông Minh Tài Ba Hidalgo Don Quichotte de la Manche. Ông có ấn bản in năm 1605, ấn bản mà ông thấy hoàn chỉnh nhất. Nhưng vấn đề ông không phải là tiểu thuyết gia hay nhà thơ, ông là nhà sử học. Ông thích thú với bản văn đến nổi gia đình phải lo ngại. Khi ông đóng phòng lại và sống bên cạnh các quyển bách khoa tự điển, người ta thường nghe tiếng ông bật cười. Vợ ông là bà Mouzah vội vàng chạy đến đập cửa phòng, hỏi xem có gì lạ không, bà đem đến cho ông ly nước hay tách trà cúc để ông thư giản. Ông không nói chuyện với bà mà chỉ nén cơn cười.

 Ben đọc lui đọc tới từng câu, ngừng lại thưởng thức từng chữ. Ông cười ra nước mắt, vì cười ra nước mắt mà công việc dịch thuật bị chậm mất vài phút. Đôi lúc ông thả hồn mơ mộng, ông quên ăn. Ấy thế mà ông không có cảm tưởng mình đói, cũng không nghĩ là mình bỏ ăn. Khi vợ lo lắng, ông nói: “Em biết không, anh như vị khách tương lai của chúng ta, anh thích được nuôi dưỡng bằng những kỷ niệm dịu ngọt!”

 Mouzah nghĩ rằng nàng là một trong những kỷ niệm dịu ngọt của ông. Giống như các nhà sử học, Ben thích vặn óc ra suy nghĩ để xem đâu là sự thật của câu chuyện, ông sáng tạo ra những sự kiện, những kỷ niệm mà sự việc đáng lý phải xảy ra như thế. Ông gọi vợ vào và đọc cho bà nghe vài câu Cervantès viết: “Người đàn bà đức hạnh giống như tấm gương thủy tinh trong vắt và sáng chói mà một chút hơi phà vào sẽ làm cho nó mờ đi. Phải đối xử với bà vợ đức hạnh như đối xử với vật thánh: tôn thờ nhưng không được chạm đến. Phải gìn giữ, phải thán phục như  mình gìn giữ và thán phục một căn vườn đầy hoa hồng, đầy kỳ hoa dị thảo.”

 Mouzah vừa cười vừa nói: “Em thích em là căn vườn thơm ngát, nhưng căn vườn được bàn chân ý chí và đam mê của anh dẫm lên dù cho vì thế mà các cánh hoa trong vườn rụng tả tơi!”

 Không những Ben để thì giờ dịch từ tiếng tây ban nha qua tiếng ả rập, mà ông còn bỏ chút thì giờ để viết một câu chuyện song song câu chuyện đó, ông định sẽ tặng cho bạn câu chuyện này bằng cách dịch từ tiếng ả rập qua tiếng tây ban nha. Nhờ thế mà sau này Cervantès sẽ biết chính Sidi Ahmed Benengeli gợi hứng cho ông tựa đề quyển sách của ông.

 Gió bỗng nhiên thổi mạnh khác thường. Các cánh cửa đập vào nhau. Các con chim hải âu bay lảo đảo, mây bay là đà xuống thấp. Ngư ông cắm thuyền, người gác hải đăng thổi còi báo động.

 Ben tiếp tục ngồi viết. Cervantès bình thản chờ giờ lên tàu để ra đi. Ông đứng trên cảng Tarifa. Tấm bảng quảng cáo huênh hoang ca ngợi tốc độ chớp nhoáng của chuyến đi: “Âu châu-Phi châu: cách nhau ba mươi phút.”

 Trong lúc chờ đợi, bà vợ của Ben đến gặp wali, vị siêu cầm quyền khu vực để thuyết phục ông ta tổ chức một cuộc đón tiếp long trọng Ngài Cervantès.

 -           Ông nào?

-           Ngài de Cervantès, tác giả quyển Don Quichotte de la Manche.

-           Bà nhạo tôi đó chăng? Don Quichotte không phải là người thiệt, đó là nhân vật ảo, là ẩn dụ để ám chỉ cuộc chiến chống mấy cái cối xoay gió.

-           Không phải Don Quichotte đến nhưng là người Kỵ Sĩ Giang Hồ viết truyện này.

-           Rồi Ngài sẽ đi lang thang trong mấy đường phố bẩn thỉu đầy những người buôn bán lén lút trốn thuế, mấy đường phố dơ dáy vì các nghị sĩ chi lo việc tư, không lo việc công này à?

-           Không, Ngài de Cervantès đến để xem tình trạng ngôi kịch viện mang tên ngài. Ngài không có thì giờ đi thăm và xem xét các vấn đề của thành phố. Đến cảng, Ngài sẽ lên ngựa đến Đại Hội Cành Hồng, ở đây họ đã chuẩn bị đón tiếp Ngài. Sau đó Ngài sẽ đến thẳng thềm kịch viện. Tại đây xin ông đọc một trang sách Don Quichotte bằng tiếng ả rập cho Ngài de Cervantès nghe. Sau đó thì xin ông kín đáo rút lui.

-           Sao? Có một kịch viện ở Tanger, tôi chưa bao giờ nghe chuyện này?

-           Ngày xưa có một kịch viện, khi người Tây Ban Nha đến chiếm đóng vùng bắc Maroc, họ xây một kịch viện huy hoàng tráng lệ, đó cũng là công trình văn hóa duy nhất họ để lại cho thành phố này; dĩ nhiên cũng có bệnh viện, viện kỹ thuật kinh doanh bê bò nhưng không so sánh được.

-           Đọc bằng tiếng ả-rập? Tôi thích đọc tiếng pháp. Tôi không thích làm trò cười. Ngoài việc này tôi còn làm gì để giúp bà nữa?

-           Tổ chức một buổi tiếp tân lịch sự cho nhà văn đáng kính Miguel de Cervantès trong dinh thự của vị toàn quyền ở Núi Cổ.

-           Bà lại nhạo tôi nữa đó à? Khi còn ở trung học, tôi có học vài trang trong quyển Don Quichotte, tôi còn nhớ nhưng bà muốn tôi tin là cái ông sống cách đây ba, bốn thế kỷ bây giờ đến thăm mình sao? Bà mời được ông này sao bà không mời luôn Picasso, Dali, Garcia Lorca và biết bao nhiêu người chết khác nữa?

-           Ngài de Cervantès sẽ đến khi gió phía đông ngừng thổi.

-           Tôi tưởng tượng ông sẽ đến trên chiếc thảm bay.

-           Ông hình dung xem, chúng tôi đã nghĩ đến điều đó, tác phẩm của Ngài cũng từa tựa như Ngàn Lẽ Một Đêm nhưng các nhà khí tượng khuyên không nên để Ngài đi trên chiếc thảm bay. Quá nguy hiểm cho một người mảnh mai như Ngài de Cervantès. Vì thế Ngài phải dùng tàu thủy điện siêu tốc, ông biết đó: chỉ cần ba mươi phút là vượt qua eo Gilbraltar.

-           Tôi phải ăn mặc như thế nào?

-           Áo choàng djellaba trắng, khăn quàng đỏ, thắt lưng vàng.

-           Tôi đại diện cho bộ trưởng văn hóa?

-           Không, không, Ngài de Cervantès rất ghét chức vị và các bài diễn văn cứng ngắt.

 
Ông wali lên xe và ra lệnh cho tài xế lái đến đường Pasteur, đậu trước quán càphê Paris. Ông đi bộ một mình từ đường Anoual đến trước Kịch Viện Cervantès. Mùi nước tiểu xông lên mũi. Đứng trước mặt tiền, mặt tiền này hẳn ngày xưa rất đẹp, ông bịt mũi và cúi xuống xem một đống đồ tấp ở đây. Có đủ mọi sự. Xác một con mèo, xác hai con chuột bị moi ruột, hàng chục bao rác, một cái ghế sắt cũ, một bộ áo hát tuồng bị mối ăn...

 
Ông lợm giọng và chán nản. Phải dọn dẹp gấp. Ông wali thuê thợ chui người Phi Châu đến kịch viện ban đêm để làm vệ sinh. Mấy người thợ này đi chui qua vịnh Gilbratar để đến đây làm việc. Ngồi trong xe, ông vừa đọc Don Quichotte vừa coi sóc đám thợ người Phi. Sáng hôm sau, tất cả đều sạch sẽ.

 Ba ngày hôm sau. Gió lặng. Biển yên. Cây cối xem lại cành cây của mình. Chim muông xây dựng lại tổ. Trời trong xanh; biển lóng lánh như tấm gương phản chiếu bầu trời xanh kia. Ben và Mouzah sẵn sàng. Ông wali cũng vậy, ông đến nhà vị sử học với cặp ống nhòm nhà binh trên tay. Họ lên sân thượng để nhìn xa cho rõ. Ngài de Cervantès đang trên đường đi tới.

 
Ngài không đi một mình, có Sancho, có nàng Zorha và cha của nàng là ông Hadji Mourad, ông này có vẽ không hài lòng vì cô con gái vừa theo đạo kitô, có de Lalla Marien, người giúp cô gái theo đạo và hai anh em sinh đôi giống nhau y hệt.

 

Bảy phát súng cà-nông báo hiệu Ngài de Cervantès đến. Mọi lưu thông đều ngừng lại. Một đoàn kèn trống đi dẫn đầu. Cervantès đi bộ, Ngài ngửng đầu lên nhìn các bà đang đứng trên bao lơn. Ben và Mouzah đứng chờ trước cửa kịch viện để đón tiếp. Trước cử tọa nồng nhiệt, ông wali mở tập II trang 450 sách Don Quichotte ra đọc:

 

“Thành phố chúng tôi xin chào mừng người mà tôi hân hạnh tôn vinh: Ngài là tấm gương, là  đèn pha, là ngôi sao, là hướng đạo của câu chuyện hiệp sĩ giang hồ! Chào mừng hiệp sĩ Don Quichotte de la Manche; đây không phải nhân vật giả tưởng mà chúng ta mô tả trong câu chuyện giả nhưng là nhân vật có thật, duy nhất, hợp lệ: nhân vật mà nhà sử học danh tiếng Sidi Ahmed Benengeli đang có mặt ở đây mô tả!”

 Sau một lúc im lặng và ngạc nhiên, nhà văn sĩ lớn lao đọc một bài diễn văn như một thuở xa xưa hoành tráng nào đó:

 
“Ai chọn cho mình một cái cây sum suê, người đó sẽ được bóng mát che chở. Tôi may mắn có được một cái cây sum suê, đó là cây của say sưa và của dị thường, hoa trái của nó là lòng can đảm và dũng cảm, cây đã nuôi dưỡng trong đầu tôi những giấc mơ và những chuyện cao đẹp. Theo luật của lãng quên, tôi đã bỏ lịch sử. Tôi chỉ là một quyển sách, một tác phẩm bao la mà thời gian đã hình thành, mà cuộc sống đã viết nên. Tôi biết sách vở là cái tự do của chúng ta dù cho có người cho rằng sách vở là chuyện không thật. Sách vở cho chúng ta khả năng mở cánh cửa của một lâu đài kiên cố hay một dinh thự huy hoàng mà tường vách là vàng khối nguyên chất, hóc hẻm là kim cương, cánh cửa là kỳ hoa dị thảo... Và không phải như thế là hết. Cuối cùng dù tôi có chết đi, cái chết cũng không chiến thắng được. Xin chào từ giã các bạn!”

 Và ông ra đi như khi ông đến. Ông biến mất trong đại dương đúng khi ngọn gió đông vừa thổi để chào mừng ông.

 Tahar Ben Jelloun