1. Jorge Luis Borges: Thiên Thư

 

Gửi những cư dân của một đền thiêng Sài Gòn, đã từng đọc ra câu thần chú của Đức Thánh Trần: Hãy lấy nước mà dựng đất, và từ đó, có một dân tộc được gọi là "thuyền nhân".

 

JT

 

Nhà tù sâu. Bằng đá. Như một nửa trái cầu thật tròn trịa. Mặt đất, cũng bằng đá, chặn đứng nhà tù, khi nó mon men tới gần vòng tròn lớn, như để tăng thêm cảm giác tù túng. Một bức tường cắt nhà tù ngay tại tâm của nó. Tường thật cao, nhưng không đụng mái cầu bên trên. Một bên bức tường, là tôi, Tzinacán, đạo sĩ ở kim tự tháp Qaholom. Tháp này đã bị Pedro de Alvarado thiêu rụi. Bên kia, là một con báo. Con vật đếm thời gian và không gian bên trong chuồng bằng bước chân vô hình, đều đặn của nó. Sát mặt đất, là một cửa sổ lớn, có chấn song, ăn vào bức tường giữa nhà tù. Vào giờ không bóng [giờ ngọ], người ta mở cái bẫy sập ở bên trên, và người gác, cũng mòn mỏi dần theo năm tháng, ròng xuống một sợi cáp, ở đầu sợi cáp là nước uống và vài mẩu thịt. Ánh sáng nhờ đó cũng tuôn vào căn hầm. Và đó là lúc tôi có thể nhìn thấy con báo.

 

Tôi cũng không còn nhớ rõ mình đã trải qua bao năm tháng ở trong cõi tối tăm này. Tôi, vốn ngày nào trẻ măng, còn đi lại trong chuồng, chẳng làm chi ngoại trừ chờ, kết thúc của đời mình, mà ông trời đã quyết định, bằng thái độ của một kẻ biết mình sẽ chết. Tôi, ngày nào, với con dao bằng đá nhọn hoắt, mở banh ngực biết bao nạn nhân, giờ này không làm sao nhắc nổi thân hình lên khỏi bụi bặm, nếu không nhờ ma thuật.

 

Buổi tối, bữa tháp bị đốt, đám kỵ sĩ, từ những con ngựa cao lớn, đã tra tấn tôi, bằng những thanh sắt nặng nề. Họ tra khảo, bắt chỉ ra nơi chôn giấu kho tàng. Họ đạp đổ tượng trời, ngay trước mắt tôi, nhưng trời đã không bỏ tôi, và tôi cứ thế lặng câm, trong những lần tra tấn. Họ đánh đập, dầy vò, chà nát thân xác tôi. Rồi tôi tỉnh dậy, thấy mình ở trong nhà tù này, nơi kéo dài những ngày sống còn lại của mình.

 

Bị thúc đẩy bởi ý nghĩ, phải làm một điều gì nhằm lấp đầy thời gian, tôi tính hồi tưởng, trong bóng đêm, tất cả những gì tôi đã biết. Tôi đốt phí, hết đêm nay tới đêm mai, cố nhớ lại một số rắn đá, bao nhiêu con, con nào trước, con nào sau; hình dạng một thứ dược thảo. Bằng cách đó, tôi trốn chạy năm tháng, và sở hữu tất cả những gì đã từng thuộc về mình. Một đêm, tôi cảm thấy mình đang sáp gần một kỷ niệm thật quí báu, như thể, trước khi nhìn thấy biển, kẻ du lịch chợt nhận ra, rằng máu mình sôi động. Vài giờ sau, kỷ niệm thấp thoáng hiện ra.

 

Đây là một trong những truyền thống liên quan tới ông trời. Tiên đoán ra được rằng, vào cuối thời gian, sẽ xẩy ra rất nhiều tai ương và điêu tàn, vào cái ngày đầu tiên sáng tạo ra vũ trụ, ông trời viết ra một câu thần chú; biết được câu thần chú này, là tránh khỏi mọi tai tương. Ông trời viết, theo một cách mà bao nhiêu thế hệ sau này, dù xa xăm cách mấy, hoặc may mắn, tình cờ tới cỡ nào, cũng không làm sao mở ra được. Chẳng ai biết ông trời đã viết ở đâu, và bằng những con chữ gì, nhưng chúng ta chẳng hề nghi ngờ, rằng câu thần chú chắc chắn là ở đâu đó, và sẽ có ngày có người được chọn lựa, và người đó sẽ mở ra được. Tôi suy nghĩ, như là chúng ta luôn luôn thấy đấy, lúc này chúng ta đang ở những ngày cuối cùng của thời gian, và tôi, với tư cách vị tu sĩ cuối cùng của đạo trời, có thể mình sẽ có đặc ân mở ra câu thần chú. Sự kiện, những bức tường nhà tù bao quanh, chẳng làm sao ngăn cấm hy vọng này của tôi. Có thể tôi đã từng nhìn thấy câu thần chú này hàng nghìn lần, được ghi tại Tháp Qaholom, và đã bỏ qua không tìm hiểu.

 

Ý nghĩ này cho tôi can đảm, nhưng liền lập tức, nó làm tôi choáng váng. Trời đất bao la như vầy, bao la những hình dáng cổ xưa, bao la những hình dáng không thể lụi tàn, gần như thiên thu vĩnh viễn cứ như vậy: bất cứ một hình dáng nào trong hằng hà sa số đó, cũng có thể chứa đựng thiên thư. Một ngọn núi cũng có thể là lời của trời, hay một dòng sông, một đế quốc, hay là sự sắp xếp của những vì sao. Nhưng qua bao thế kỷ, núi mòn đá lở, sông thay đổi dòng, đế quốc tang thương dâu bể, con đường của những vì sao khác đi. Nhà trời cũng đâu tránh được sự chuyển nhượng, từ thế lực này qua thế lực khác. Núi và sao là những cá thể, và những cá thể qua đi. Tôi phải kiếm một thứ gì bền bỉ hơn, ít bị hư hỏng hơn. Tôi nghĩ tới đời này qua đời nọ những loài ngũ cốc, cây cỏ, chim chóc, con người. Có thể câu thần chú được viết trên mặt tôi, và chính tôi là mục đích sự tìm kiếm của mình. Đúng vào lúc đó, tôi chợt nhớ ra là con báo cũng là một trong những tùy tùng của trời, cũng do trời mà ra.

 

Thế là lòng thành kính dâng lên ở trong tôi. Tôi tưởng tượng ra buổi sáng đầu tiên của thời gian. Tôi tưởng tượng, trời đã giấu câu thần chú ở trong da của những con báo, một loài vật quần tụ, sinh sôi nẩy nở đời này qua đời khác, ở hang, đồng, đảo, và sau cùng con người đã nhận chúng. Tôi tưởng tượng một mạng lưới những con hổ như thế đó, một mê cung nóng bỏng những con hổ, reo rắc khủng bố ghê rợn trên những cánh đồng, giữa những đàn súc vật, để bảo tồn một ý đồ. Phòng giam kế bên chứa một con báo. Trong gang tấc như thế đó, tôi nhận ra mối tương liên và niềm ân điển bí ẩn.

 

Tôi đã trải qua những năm tháng dài, để học hỏi trật tự và sắp xếp những công việc phải làm. Cứ mỗi ngày mù lòa cho tôi chút ánh sáng, và tôi có thể gắn chặt vào hồi ức của mình những khoảng đen đánh dấu bộ lông vàng. Có những khoảng cho thấy những điểm, những khoảng khác làm thành những đường vằn ăn vào mặt sau những ngón chân; những khoảng khác lập đi lập lại hàng năm. Có thể vẫn chỉ là, cùng một âm thanh, hay cùng một từ. Rất nhiều khoảng có những đường viền mầu đỏ.

 

Cực nhọc trần ai, làm sao tôi có thể nói ra cho hết được. Đã bao lần, tôi la lớn, vào những bức tường, chuyện giải ra một câu thần chú như vậy, là điều không thể. Hết còn cảm giác, tôi đánh vật với câu đố đang hành hạ tôi, dù sao cũng chưa cực nhọc nhiều, nếu so với toàn thể câu đố mẹ của mọi câu đố, tức là là câu thần chú mà ông trời đã viết ra. "Câu nói lên sự thông minh tuyệt đối, nó phải như thế nào?" Tôi suy nghĩ, ngay trong những ngôn ngữ con người, mỗi câu nói là giả dụ tất cả vũ trụ. Nói "hổ", là nói những con hổ đẻ ra "hổ", những con hươu, những con rùa mà "hổ" đã xé xác, cỏ mà những con hươu sống nhờ nó, đất là mẹ của cỏ, không gian đem ngày đến cho đất. Tôi suy nghĩ thêm, trong ngôn ngữ của một ông trời, lời nói đẻ ra một chuỗi vô tận những sự kiện, không phải theo kiểu ôm vào, mà là mở ra; không phải theo cách liên lũy, mà là tức thì. Cùng với thời gian, ý niệm về một câu nói thiêng liêng, đối với tôi, nó có vẻ chứa đầy nguy nàn, và cũng không kém phần bổ báng. Tôi nghĩ, "Ông trời chỉ nói một từ, và từ này ôm ở trong nó sự tràn đầy. Bất cứ một từ, đẻ ra từ đó, đều chỉ là thứ yếu, so với vũ trụ, và chẳng thể nào được coi là hoàn tất, so với tổng số thời gian. Những từ đầy ứ tham vọng, nhưng cũng thật nghèo nàn đáng thương của con người, "tất cả, thế giới", vũ trụ": chỉ là những cái bóng, những âm thanh nhai nhái của tiếng trời, chỉ có tiếng trời mới tương đương một ngôn ngữ, và chứa đựng tất cả những gì mà ngôn ngữ có thể chứa đựng."

 

Bữa đó, hay đêm đó – đêm hay ngày khác chi đâu đối với tôi? – tôi mơ thấy trên mặt đất nhà tù của tôi có một hạt cát. Tôi lại thiu thiu, chẳng màng chi tiết này. Tôi mơ thấy mình thức giấc, và có hai hạt cát. Tôi lại ru mình ngủ, và mơ thấy có ba hạt cát. Chúng sinh sôi chứa chật nhà tù, và tôi, tôi chết ngạt ở bên trong nửa trái cầu cát. Tôi hiểu mình mơ, và cố gắng thức dậy. Ích chi đâu, thức dậy: cát làm tôi nghẹt thở. Một người nào đó có nói cho tôi hay rằng,"Mi không thức giấc sau đêm, mà là từ giấc mộng trước. Giấc mơ này là ở bên trong một giấc mơ khác, và cứ thế cho tới vô cùng, và là con số những hạt cát. Con đường trở ngược là vô tận; mi sẽ chết trước khi thực sự thức giấc."

 

Tôi thấy mình tiêu tùng. Cát chật mồm tôi, nhưng tôi la lên: "Hạt cát mơ, mi làm sao giết nổi ta; làm gì có chuyện những giấc mơ ở trong những giấc mơ khác." Một tia sáng làm tôi tỉnh. Trong cõi tối tăm hết mực, một vòng tròn sáng vẽ ra. Tôi nhìn thấy hai bàn tay và khuôn mặt người cai ngục, cái ròng rọc, sợi dây cáp, thịt, và những cái hũ.

 

Từng chút từng chút, con người nhập dạng, là cái phần số của mình; cứ thế cứ thế, nó trở thành những hoàn cảnh của nó. Một kẻ giải mã câu thần chú, một người trả thù, một tên thầy tu của một đền thiêng, đâu chỉ có vậy mà còn hơn thế nữa: tôi là một tên tù. Từ mê cung miệt mài không mệt mỏi của những giấc mơ, tôi trở lại căn hầm gớm ghiếc, như nơi ăn chốn ở của mình. Tôi chúc phúc cho cái ẩm ướt của nó, tôi chúc phúc cho con hổ của nó, tôi chúc phúc cho cái cửa hầm tù, tôi chúc phúc cho cái thân già đau khổ của tôi, tôi chúc phúc cho sự tối tăm của đá.

 

Thế rồi tới sát na, tôi không thể quên, mà cũng không thể trao đổi liên lạc. Tới sát na, tôi nhập vào, đồng nhất với sự thiêng liêng cao cả, với thiên tính, với vũ trụ, (tôi không hiểu hai từ thiên tính – divinité - và vũ trụ – univers - có khác nhau gì không). Cực lạc như thế đó, là không thể lập đi lập lại những biểu tượng của nó. Có người nhìn thấy Ông Trời trong một phản ánh, kẻ khác nhận ra Ông Trời trong một thanh gươm, hay là trong những vòng tròn của một bông hồng. Tôi nhìn thấy Một Cái Bánh Xe rất cao, không phải ở trước mắt tôi, cũng không phải ở đằng sau tôi, mà là ở khắp cả mọi chốn, cùng một lúc. Cái Bánh Xe này làm bằng nước, và cũng bằng lửa, và, rõ ràng phân biệt được những đường viền, vậy mà nó vô vùng. Hỗn mang ở trong đó, tất cả những sự vật sẽ là, đang là, và đã là, được tạo thành. Tôi là một sợi, của cái khổ dệt toàn thể đó, và Pedro de Alvarado, kẻ tra tấn tôi, là một sợi khác. Trong đó, có tất cả, nào là nguyên nhân, nào là hậu quả, và chỉ nhìn Cái Bánh Xe, tôi đủ hiểu, những nguyên nhân hậu quả như thế đó, là vô tận. Ôi, nỗi vui hiểu còn hơn cả nỗi vui tưởng tượng, hoặc cảm tượng (sentir)! Tôi nhìn vũ trụ và tôi nhìn thấy những mưu đồ thầm kín của vũ trụ. Tôi nhìn thấy những cội nguồn được kể ở trong cuốn Lời Khuyên (Le Livre du Conseil). Tôi nhìn thấy những ngọn núi từ dưới nước nhô lên. Tôi nhìn thấy những con người đầu tiên, được làm bằng lá cây và thớ gỗ. Tôi nhìn thấy sỏi đá tấn công người. Tôi nhìn thấy chó xé nát mặt người. Tôi nhìn thấy một ông trời không mặt, ở phía sau những ông trời. Tôi nhìn thấy những con đường vô tận tạo thành cực lạc độc nhất, và, ngộ ra mọi điều, tôi đọc ra được hổ thư (l’écriture du tigre).

 

Đó là một công thức gồm mười bốn từ ngẫu nhiên (có vẻ như là ngẫu nhiên). Tôi chỉ cần đọc lớn lên là trở thành bách chiến bách thắng đả biến thiên hạ vô địch thủ. Tôi chỉ cần đọc lên là nhà tù bằng đá này tan biến vào hư vô, là ngày biến vào đêm đen của tôi, là trẻ mãi không già, là bất tử, là hổ xé xác Alvarado, là lưỡi dao thiêng cắm ngập vào những lồng ngực Tây Ban Nha, là đền thiêng được dựng lại, là cả vương quốc được tái lập. Mười bốn con chữ, mười bốn từ, và tôi, Tzinacán, tôi sẽ cai trị những vùng đất mà Moctezuma đã cai trị. Nhưng tôi biết rõ một điều, tôi sẽ chẳng bao giờ đọc lên mười bốn từ huyền diệu đó, lý do là, tôi chẳng còn nhớ gì về Tzinacán.

 

Hãy chết đi, tôi, tôi, tôi, cùng với câu thần chú ghi trên da loài hổ dữ kia. Kẻ nào đã từng ngộ ra vũ trụ, ngộ ra những mưu đồ cuồng điên của vũ trụ, làm sao kẻ đó còn có thể nghĩ tới, chỉ một con người, với những trò thổi bong bóng rẻ tiền, những hạnh phúc dớ dẩn, cho dù con người đó đích thị là... tôi? Con người đó "đã có thời là nó", nhưng bây giờ, ích chi đâu? Rằng nó cưu mang số phận kia, tổ quốc nọ, ích chi đâu, một khi nó chẳng là một ai, chẳng là gì? Chính vì lý do đó, tôi sẽ chẳng thèm đọc lên câu thần chú, tôi sẽ để cho ngày tháng quên lãng mình, nằm sóng sượt trong đêm đen.

 

Jennifer Tran chuyển ngữ

 

(Theo bản tiếng Pháp của Roger Caillois, "L’Écriture de Dieu", trong "L’Aleph" - chữ đầu tiên trong bảng mẫu tự tiếng Do Thái cổ Hêbrơ - nhà xuất bản Gallimard, tủ sách L’Imaginaire).

 

Chú thích của Roger Callois: Trong "Thiên Thư", (L’Écriture de Dieu), cuốn "Lời Khuyên" (Le Livre du Conseil), lẽ dĩ nhiên là "Popol-Vu", cuốn sách thiêng của người Mayas-Quichés. Có một bản dịch tiếng Pháp, của Georges Raynaud (Tủ sách "École des Hautes Études", t. XLI, Paris, 1925).

 

Lời bạt của tác giả, Jorge Luis Borges, về "Thiên Thư" của ông:

 

"... Thiên Thư được xét đoán với thiện cảm; con báo bắt buộc tôi phải để vào miệng "nhà thuật sĩ của tháp Qaholom" những câu nói có vẻ thần bí." (J.L.B. Buenos Aires ngày 3 tháng Năm 1949).

 

 

2. Borges: Tôi thường ngẩn ngơ trước chuồng hổ...

 

Trong Thiên Thư, bản tiếng Pháp của Roger Caillois, để chỉ con vật chia sẻ một nửa nhà tù với nhà thuật sĩ tháp Qaholom, dịch giả thoạt đầu sử dụng từ "báo" và sau đó, từ "hổ". Ông không giải thích tại sao.

 

Tình cờ được đọc bài viết của Olivier Rolin, trên tờ báo Pháp Thế Giới (Le Monde), số đề ngày Thứ Năm 26 tháng Tám 1999: Borges, "Sự thực hành huyền bí" của ("La pratique mystérieuse" de) Buenos Aires, trong đó tác giả vô tình giải thích giùm thắc mắc của Jennifer tôi: "Từ ‘hổ", ở Nam Mỹ thường được dùng để chỉ những loài báo tầm thường (vulgaires tigres)."

 

Nhưng con hổ mang trên mình chữ của trời chắc chắn không phải là một loài báo tầm thường của Nam Mỹ.

 

"Tủ sách của ông bố, giầu có với những bộ bách khoa, những cuốn sách bằng tiếng Anh, bị hớp hồn bởi những con hổ ở trong vườn thú, sự can đảm của những tay anh chị khu ngoại ô Palermo: đây là những dấu ấn về những năm đầu tiên của một nhà văn uyên bác và cũng không kém phần ác độc (cruauté)," tác giả bài viết giới thiệu Borges như vậy.

 

Trong bài viết còn có bức hình của cậu học sinh trung học Jorge Luis Borges, chụp năm 1911; bức vẽ thảo một chú hổ của "Georgie", khi mới sáu tuổi, và bức hình tuyệt vời của Borges, vào năm 1969, khi ông đã mù. Bức hình của Eduardo Comesana này được rất nhiều độc giả của Borges biết tới.

 

Không phải loài hổ tầm thường của Nam Mỹ.

 

Olivier Rolin, tác giả bài viết trên tờ Thế Giới nhớ lại, đã từng gặp Borges trước đó nhiều năm. Một tấm biển đồng khắc tên ông, tại một căn nhà trên phố Maipú. Bà mucama, la gouvernante (quản gia), mời tôi (Olivier Rolin) vào phòng khách. Borges ngồi ở cuối phòng, trên sô pha, tay cầm tẩu, tì nhẹ lên cây gậy. Dọc theo tường phòng khách, là những chiếc ghế, đều có người ngồi, và đều là khách như tôi, và đang đợi tới lượt mình. Người tới mời ông chủ trì một trung tâm văn hóa địa phương, người mong một lời đề tặng... Tất cả mọi người đều có thể được mời, và người ta kể cho tôi nghe, có cả những du khách Mỹ, tới để mong ông chụp hình cùng với họ. Bạn có thể tưởng tượng ra được, hoàn cảnh của tôi lúc đó: chẳng khác chi lạc vào phòng đợi của nha sĩ. Có điều, tại phòng nhổ răng, người khách không thể biết "nỗi đau một góc con người" [lấy ý từ câu nói của người Việt, ‘cái răng cái tóc một góc con người’], của người tới trước mình nó ra sao.

 

Đã từng đọc rất nhiều tác phẩm của Borges, đặc biệt là "Ca ngợi bóng tối", trong đó ông viết, "Thoạt đầu thì chưa, nhưng rồi thì thế là, tôi đã dành cả cuộc đời dài ngoẵng của mình cho mớ chữ.... cho sự thực hành huyền bí của thành phố Buenos Aires, và cho những điều ngỡ ngàng, mà nếu bạn không nghĩ là tôi quá tự kiêu, thì hãy tạm gọi nó là siêu hình học", Rolin tính gặp Borges để hỏi về "sự thực hành huyền bí" đó. Nhưng ông bỏ cuộc, có lẽ vì thấy còn lâu mới tới lượt mình, nhưng đúng ra, ông biết, khó mà hỏi Borges, trong một hoàn cảnh như vậy. Bài viết là nhằm để trả lời thay cho Borges.

 

"Tôi (Borges) thường ngẩn ngơ trước chuồng hổ." Nói rõ hơn, cái điều mà ông thực hành với một niềm ngưỡng mộ, đó chính là "ngẩn ngơ trước chuồng hổ", chính là con hổ "gậm một mối căm hờn trong cũi sắt đó"! Ông giải thích thêm, "không phải hổ mắt đốm của những hòn đảo trôi bềnh bồng nơi vùng Paraná... nhưng mà hổ da vằn, thuộc vùng Á Châu, thật uy nghi thật vương giả, và chỉ có những chiến binh (hommes de guerre), ngồi chót vót ở trên lưng những chú voi cao khềnh mới dám đương đầu với nó."

 

"Tôi thường ngẩn ngơ, dứt tình bỏ đi không nổi, trước một trong những cái chuồng ở trong vườn thú; tôi mê những cuốn bách khoa rộng lớn, và những cuốn sách lịch sử tự nhiên, chính vì vẻ tuyệt vời của những con hổ ở trong đó (tôi vẫn còn nhớ những hình ảnh này, và mỗi lần nhớ, tôi vẫn thường lầm chúng với vầng trán và nụ cười của một người phụ nữø)."

 

Hổ, sự độc ác, đàn bà, bách khoa... có tất cả những thứ đó, trong đầu một nhà văn, vào cái thời còn cắp sách đi học. "Những con đường chia năm xẻ bẩy", cũng từ đó. Chúa sơn lâm, chính là sự dữ dằn, và cũng là tình yêu. Đó là tình yêu được cảm thấy, như là một sự độc ác. [Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã từng ví mùa Thu với một người đàn bà là vậy: Độc và Đẹp]. Emma Zunc, trong một câu chuyện mang tên nàng, khi hiến thân cho một người thủy thủ norvégien, "nàng nghĩ (nàng không thể không nghĩ), rằng cha nàng đã làm điều ghê rợn đó với mẹ nàng, cái điều mà bây giờ người ta làm với nàng." Nói một cách ngắn gọn, trong văn chương Borges, không có cái hành động làm tình, hoặc có thì cũng bị coi là gớm ghiếc! Độc giả của Borges chắc khó mà quên câu chuyện khủng khiếp, "L’intruse", hai anh em san sẻ cùng một người đàn bà, và sau bán cho một ổ điếm, cuối cùng chuộc lại, để làm thịt, bởi vì thân thể của nàng đã chia rẽ hai anh em. Hành động làm tình, người ta có thể nói, là "sự độc ác xấu", giống như tấm gương, cứ thế nhân lên mãi, những vẻ bề ngoài của chúng ta, một cách thật là vô tích sự. Trên tất cả, hổ là vật tổ của cái gọi là "sự độc ác tốt", có ở những đấng hảo hớn thiện nghệ dùng dao, chuyên ném bút chì... Tới đây, chúng ta dời vườn thú để đi gặp những tay anh chị mà Borges đã từng say mê, nơi ngoại ô Palermo, phía bên kia đại lộ Santa Fé.

 

Nhưng trước khi gặp gỡ họ, Rolin cẩn trọng chúng ta, về sự khác biệt giữa nhà văn tồi [loài báo tầm thường] và nhà văn tốt [hổ Á Châu, có vằn, uy nghi vương giả]: Điều phân biệt chữ [cách viết] của nhà văn, với cách viết của "những gã nho nhỏ thích viết" [tạm dịch cụm từ cay độc mà Rolin mượn của Michaux, "les petits hommes qui aiment à écrire"], đó là tính đa tầng của những đề tài đan chéo vào với nhau, những nút câu, đoạn xoắn lại. Đó là độ đậm đặc của những ngã ba, tư, năm, sáu... của một thành phố, tức mê cung chữ. Chính vì vậy, viết, đọc là những hành động làm nên điều mà Ponge gọi là "chơi tư tưởng" (jouir de la pensée).

 

Tôi thường ngơ ngẩn trước chuồng hổ....

 

Jennifer Tran