gau
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách

CHUYỂN NGỮ


 2.

    Nhưng chất liệu thì cứ trơ ra như thế: this material is fixed, “Tôi không có cách chi để mà thêm thắt”, như ông nói. Naipaul vẫn còn vài năm cách xa, điều mà sau này, ông coi là sự quan tâm đầy đủ của mình, về lịch sử, hay câu chuyện, của Trinidad - lịch sử của diệt chủng, bóc lột, khốn cùng và bỏ mặc – mà ông có được khi tìm tòi nghiên cứu và viết “Sự Mất Mát Thành Phố Vàng El Dorado” (1969). Ông vẫn chưa có thể viết được một cuốn sách về những năm ở Anh; và giả tưởng, tức tiểu thuyết, chúng hoạt động “tốt nhất, ở bên trong những biên cương xã hội đã được xác định”, những cuốn tiểu thuyết như thế có vẻ như không thể nào sử dụng được thứ hiểu biết ngày càng trở nên mầu mỡ, của Naipaul. Những cuốn sách du lịch, về vùng Caribean, và Ấn Độ hứa hẹn một sự giải thoát, nhưng một lần nữa, lại bật ra, tham vọng, về một văn chương thoải mái, tự do chống lại truyền thống văn chương đã được xác định. Bởi vì sách du lịch, như Naipaul khám phá ra, nó là một phần khó có thể tách ra khỏi truyền thống chính quốc, đế quốc, khó hơn nhiều, so với tiểu thuyết.

    Những nhà du lịch Anh mà Naipaul muốn nương theo – D.H. Lawrence, Aldous Huxley, Evelyn Waugh – “viết vào thời đế quốc”; họ, “không thể tránh được, đều trở thành một nửa-đế quốc, trong những câu chuyện du lịch của họ”. Ông đâu muốn là nhà văn du lịch theo kiểu đó, khi viết về vùng Caribean hay Ấn Độ, xứ sở của tổ tiên của ông. Sau đó, ông viết về chuyến đi đầu tiên của mình, vào đầu thập niên 1960, ở trong Bí Ẩn Lúc Tới (1987),  rằng, “chẳng có mẫu mã nào cho tôi, về cái kiểu khai phá, thám hiểm này, chẳng ông nào giúp được tôi, nào Forster, nào Ackerley, nào Kipling.” Ông không thể nào đóng vai của họ, ấy là nói vẻ cái vẻ dửng dửng, tách ra khỏi sự kiện, luôn cả cái giọng diễu cợt tí tí của họ, bởi vì, “nhìn - như một kẻ du lịch, một khách thăm viếng - những cộng đồng điêu đứng tiều tụy khác, tại một miền đất bị cướp đoạt, bóc lột đến trơ xương ra như thế… là nhìn, từ một khoảng cách, cộng đồng của chính mình, thì cũng rứa như vậy.”

    Những “nhắc nhở” không thể tránh được như thế đó, về chính quá khứ của mình – cái quá khứ mà ông vẫn không thể nào rũ khỏi, vào những năm đầu thập niên 1960, chính những điều này làm cho Naipaul trở thành một “tay du lịch đáng sợ” [the fearful traveller], ở Ấn Độ. Nhưng nó cũng ép ông phải “tự định nghĩa rất rõ ràng với chính mình”: một sự nhìn nhận, về một nơi chốn có tính lịch sử và văn học, và điều này trở thành một thói quen ở nơi ông, và, sau cùng, đây là nền tảng cho những nhận xét của ông về những nhà văn khác. Những tiểu luận văn học và có tính tự thuật, nếu đọc cùng với những bài viết về những xã hội Ấn Độ, Phi Châu, và Mỹ Châu, được in trong Nhà Văn và Thế Giới, chúng đưa ra những nhận xét về nhiều người viết khác biệt, như Kipling, Gandhi, Nira C. Chaudhuri, Conrad, và R.K. Narayan. Chúng dựa vào những dẫn giải đặc sắc, uyên nguyên, về lịch sử và luôn luôn qui về vấn đề tự xác định mình, tự nhìn ra mình: làm sao, bằng cách nào nhà văn nhập vô, hoặc rãn ra, ấy là nói về những xác quyết sâu xa của họ, về xã hội có họ ở trong; và viết về nó; làm sao, bằng cách nào, hình thái, thể loại văn học mà họ chọn lựa đó lại có thể phản ảnh, hoặc méo mó, làm biến dạng những kinh nghiệm đặc thù của họ về thế giới.
Theo Naipaul, sở trường, và luôn, sở đoản [những đức hạnh và những hạn chế] của Kipling, ở trong Plain Tales from the Hills, [Những câu chuyện đơn giản từ vùng đồi], đều do ông là thành viên câu lạc bộ Hoàng Gia Anh-Ấn, nơi thoải mái dành riêng cho tầng lớp tinh anh. “Cái thế giới do con người tạo ra, đầy đủ, đồng nhất đó đâu cần giải thích”? Nó làm cái nhìn châm biếm của ông trở nên tinh tế hơn, “riêng tư” hơn. Vẫn nó, làm giọng văn của ông “dẫn dụ, uyển chuyển,… dễ đọc, nhưng gọn gàng”. Tuy nhiên, hay quá thành vụng, nếu có thể nói như vậy, bởi vì theo Naipaul, qua phân tích tính đa dạng của lịch sử của ông, nhờ tính Anh Ấn chật hẹp này mà Kipling viết được tác phẩm đầu tay, nhưng cũng chính nó đã khiến cho người Ấn không chịu tìm hiểu về chính họ.

    Trong nửa sau của thế kỷ 19, người Anh ở Ấn chuyển, từ “Cái Học Mới của Âu Châu”, mà họ thoạt đầu đại diện, qua “Hiện Đại Hóa những người Ấn Độ”. Họ ngày càng tỏ ra có thiện cảm với “những sự giản dị không mang tính trí thức” của “những người Pathan mắt xanh”, hơn là với những người Bangalis chuyên bàn cãi về thuyết Darwin và Mill. [Vốn là dân] “Ngoại ô và ít học”, họ dửng dưng trước những ước mong hiện đại hoá của Ấn Độ, chính những hoài vọng này đưa đến sự phục hưng trí thức Bengali thế kỷ 19, và khi nó qua đi, Nirad C. Chaudhuri đã bùi ngùi thương tiếc, trong Tự Thuật Của Một Người Ấn Độ Vô Danh (1951). Chẳng có gì là ngạc nhiên, văn hóa Ấn và Anh cứ thế “nghinh” nhau, và ngôn ngữ chia sẻ giữa đôi bên - tiếng Anh - chỉ gây thêm những những dở khóc dở  cười, những đầu Ngô mình Sở về mặt văn hoá.”

    Naipaul nhìn ra hiểu lầm và vô bổ, trong “cuộc gặp gỡ Anh Ấn”, và “trí thức lộn tùng phèo, của một tân Ấn Độ” ở trong những tự truyện của người Ấn, sự thiếu sót chi tiết cụ thể, vật lý, và thiếu sót một hỏi tra nghiệt ngã về chính mình, của họ. Những cuốn sách của họ nói với Naipaul về một xã hội “chưa học nhìn, và bất lực trong việc tự xác định nó, không hề đặt ra những câu hỏi, bởi vì bao lễ nghi tập tục, huyền thoại dân gian.. đã cung cấp tất cả những câu trả lời rồi.” “Những ám ảnh về thề nguyền, đồ ăn thức uống, thí nghiệm, bệnh tật tái đi tái lại…” của Gandhi đã biến cuốn tự truyện của ông thành một thứ “tạp nhạp, lai căng, hổ lốn, trong đó, một quan niệm mang tính tôn giáo về cuộc đời, thật tiếu lâm, ở trong văn hoá này, khi chuyển qua văn hoá kia, nó biến thành một thứ tự yêu mình, self-love, thật khó chịu.

3

 Pankaj Mishra giới thiệu tập tiểu luận Literary Occasions [nhà xb Vintage Canada, 2003], của V.S. Naipaul.