*

TƯỞNG NIỆM




*
GREAT writers often seem to haunt their cities. Joyce and Kafka remain ghostly figures on the streets of Dublin and Prague, and the elfin presence of Borges is still glimpsed, through cigarette smoke and tango sweat, in the cafes of Buenos Aires. In the ancient city of Cairo, it is Naguib Mahfouz who does the haunting.
Mục Sách & Nghệ Thuật của tờ Người Kinh Tế theo Gấu, thật tuyệt. Gấu 'đăng ký dài hạn', chỉ để đọc có mục này.
Mấy câu mở ra bài ai điếu nhà văn Ai Cập đầu tiên được Nobel mà chẳng tuyệt sao?

Nhà văn lớn thường ám ảnh những thành phố của họ. Joyce và Kafka sau cùng trở thành những bóng ma trên đường phố Dublin và Prague. Bóng dáng, khói thuốc lá, mùi mồ hôi sau một điệu tăng gô đã đời của Borges vẫn còn sặc sụa trong những tiệm cà phê ở Buenos Aires.
Trong thành phố cổ Cairo, bây giờ tới lượt bóng ma của Naguib Mahfouz ngự trị.
*
Lần thứ nhì bỏ chạy quê hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm thêm cay đắng: Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào, cũng không làm sống lại, chỉ một sợi nắng Sài-gòn: Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng của thành phố thức giấc ở trong tôi, tôi tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, sống lại cái phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể. Tôi đọc lại Nabokov và lần ra sợi dây máu mủ, ruột thịt giữa tác giả-nhà văn lưu vong-con vật đáng thương-nàng nymphette tinh quái. Đọc Koestler để hiểu rằng, tuổi trẻ của tôi và của bao lớp trẻ sau này, đều bị trù yểm, bởi một ngày mai có riêng một con quỷ của chính nó: Miền Bắc, Hà-nội.
Một thành phố mà tôi đã chết ở trong, nay sống lại, chỉ để kể về nó…
Lần Cuối Sài Gòn

First Arab Nobel laureate dies, aged 94
Naguib Mahfouz, nhà văn người Ả Rập đầu tiên được giải thưởng Nobel văn chương, vào năm 1988 - những cuốn tiểu thuyết của ông miêu tả cuộc sống Ai Cập, trong một góc thân thương của ông tại thành phố cổ Cairo - đã mất, tại tư gia bữa nay, 30 Tháng Tám, 2006, thọ 94 tuổi.

THE NOVELIST AND THE SHEIKH
by MARY ANNE WEAVER

Vườn Xưa

“Thời gian là nhân vật thực sự của tôi”
Naguib Mahfouz 

Mahfouz, người Ai Cập, sinh năm 1911 ở Cairo, là nhà văn viết bằng tiếng Ả Rập đầu tiên được Nobel văn chương (1988). Tác phẩm bộ ba về thành phố Cairo, Cairo Trilogy, gồm Ngõ cụt Lâu đài (Impasse des Deux Palais, bản tiếng Anh, Palace Walk, nhà xb Anchor, 498 trang), Lâu đài Dục vọng (Le Palais du Désir, Palace of Desire, 422 trang), và Vườn Xưa (Le Jardin du Pasée, bản tiếng Anh, Phố Đường, Sugar Street, 308 trang), dầy 1500 trang, hoàn tất vào năm 1952, là câu chuyện nhiều tập (saga) về một gia đình trưởng giả ở thành phố Cairo từ 1917 đến 1944. Trước đó, ông đã thử tay nghề, và cho xuất bản ba cuốn tiểu thuyết về Ai Cập cổ đại, khi còn là nhân viên tại một bộ lo về tôn giáo (Ministry of Awqaf, Religious Endowments). Ngoài bộ ba kể trên, ông còn là tác giả chừng 40 tiểu thuyết, tập truyện, kịch phẩm. 

Với Tam Khúc Cairo, bạn có thể bắt đầu theo bất cứ một trật tự nào, hoặc đọc cả ba, hoặc đọc chỉ một, điều này cho thấy tài năng của người kể chuyện. Thời gian là nhân vật chính, và cùng với nó, một thành phố, những con người dính cứng vào đời thường, vào cái nhất thời, sự hữu hạn. Và cùng với thời gian, là “tiến hoá”. Bởi vì lịch sử (histoire), như chuyện lớn (la grande histoire), hay chuyện nhỏ (la petite histoire), luôn luôn ở phía sau; nó có đó, gầm gừ, đe dọa: hãy biến cuộc đời của mi thành định mệnh. 

Từ “định mệnh” ở đây, mang âm hưởng Đông phương. Mà sao trong sổ đoạn trường có tên: một thứ nghiệp (une forme d’ensorcelante fatalité), dưới dạng một câu chuyện thần tiên, theo Nicole Chardaire, khi giới thiệu Vườn Xưa, bản tiếng Pháp, loại Sách Bỏ Túi. Bà cho rằng, khác với Ngàn Lẻ Một Đêm, khu vườn quá khứ của Mahfouz không phải vườn thúy của người đẹp Shéhérazade, nhưng được cư ngụ bởi những con người bằng xương bằng thịt, bởi nỗi đau, niềm hy vọng. Vẫn theo Nicole Chardaire, cái nguồn thực sự ở đây, là từ truyền thống văn chương Nga. Từ Tolstoi, Gogol, Dostoievski; gần hơn, từ Balzac, Proust. Gần hơn nữa, Roger Martin du Gard, mà chính tác giả cũng đã thừa nhận là ông có mắc nợ. Nói tóm gọn, đây là một dòng văn chương chơi đùa (jouer) với những ẩn dụ – của con tim, cuộc đời, lịch sử. Một dòng văn chương mà thời gian là nhân vật đích thực của nó. 

Thời gian: Ai Cập từ 1917 tới 1944. “Thời nhân” (nhân chứng thời đại): một cư dân thành phố có tên là Ahmed Abd el-Gawward. Một thương gia có tới hai cái bóng: ban ngày, trong gia đình, ngoài xã hội, đây là một con người ngoan đạo, rất nghiêm với vợ con, chí thú làm ăn. Ban đêm, ông thả lỏng con lợn lòng, chiều theo rượu và gái, lao vào những thú vui “bị cấm đoán”, thả hồn theo những điệu nhạc huê tình… Nhưng rồi giông bão nổi lên, những cô con gái của ông bắt đầu nổi loạn chống lại ông bố khắc nghiệt, những ông con trai bắt đầu mở những cuốn sách khác, không phải kinh Coran…

 Trên tờ Điểm Sách Nữu Ước (The New York Review of Books), số Nov 30, 2000, qua bài viết “Sự Độc Ác của Hồi Ức”, Edward Said đã nhìn lại Tam Khúc về Cairo, đọc mấy cuốn mới ra lò của “The Great Mahfouz”. Theo ông, trước khi được Nobel văn chương, với thế giới bên ngoài, (hay bên ngoài thế giới Ả Rập), Mahfouz chỉ được biết tới như là tác giả của những câu chuyện mang tính minh họa, về cuộc sống hạ lưu ở Cairo. Nhưng ngay cả với những sinh viên về Ả Rập hoặc giới nghiên cứu về Trung Đông, họ vẫn nghĩ, ông không có được một văn phong, hay một viễn tượng cho riêng mình. Lý do một phần là do dịch thuật. Thường là quá dở. Mahfouz lại không kiếm ra nổi một dịch giả mê văn ông tới mức để cả đời vào việc dịch. Vào năm 1980 (nghĩa là vẫn trước khi ông được Nobel), Said đã cố gắng giới thiệu ông với một nhà xuất bản ở New York; ông này đang đưa mắt nhìn về “thế giới thứ ba”, coi có cuốn nào thuộc loại số một, và biến nó thành dịch phẩm hảo hạng. Nhưng sau khi cân nhắc đắn đo, ông lắc đầu. Khi Said hỏi tại sao, ông trả lời, không hề có ý  châm biếm, rằng Ả Rập là một ngôn ngữ dễ gây tranh luận (I was told – with no dectectable irony - that Arabic was a controversial language). Nhưng thú vị là, vài năm sau khi nhà xuất bản New York lắc đầu, Said đã có dịp trao đổi với Người Đẹp Jackie, tức Jacqueline Onassis, và bà là một trong những người đã hỗ trợ ông ta. Bản quyền tiếng Anh thuộc nhà xuất bản Đại Học Mỹ ở Cairo; Mahfouz, chắc gặp lúc quá kẹt, đã bán rẻ chúng; có thể ông chẳng thèm nghĩ đến chuyện một ngày đẹp trời, ông trở thành nổi tiếng trên khắp thế giới.

 Với độc giả Ả Rập, Mahfouz có một giọng văn đặc biệt, của riêng ông, một bậc thầy về ngôn ngữ, nhưng với độc giả tiếng Anh, ông đành ăn theo dịch giả; và Said thú nhận, ông rất lấy làm buồn mà nói rằng, mấy ông đó chỉ đáng là “thợ dịch”, tức là chẳng ai có một văn phong, và có khi chẳng hiểu Mahfouz nói gì nữa! Said qua bài viết đã cố gắng giới thiệu với độc giả tiếng Anh một Mahfouz vĩ đại của ngôn ngữ Ả Rập.

 Giống như một vị hoàng đế, đứng trên bậc cửu trùng ngó xuống thần dân tức vương quốc giả tưởng do mình tạo ra, Mahfouz biết, ông có thể vẫy tay ra hiệu cho nó tới phủ phục dưới chân ông, chịu sự phán xét, nhào nặn, uốn nắn cái hình vóc, dáng dấp của nó, như Alexander, Caesar hay Nã Phá Luân, những người chuyên chinh phục, chiến thắng, mở mang vương quốc của họ. Thêm vào đó, là những ngón nghề văn hoá, trí thức, như là những phương tiện chuyển đạt dũng mãnh, trực tiếp và tinh tế. Những nhân vật của ông luôn luôn được mô tả một cách “trực khởi” ngay khi vừa ló mặt, cũng vậy, Mahfouz tới ngay trước mặt bạn (độc giả), nhấn bạn vào trong cái dòng chẩy là những câu chuyện của ông, một dòng kể dầy, đặc, và bạn cứ thế mà loay hoay bơi lội ở trong đó. Lịch sử Ai Cập dưới thời những vị thủ tướng như  Saad Zaghloul và Mustapha el Nahas, chi tiết về những đảng phái, chuyện nhà này nhà kia… tất cả được diễn tả thật tài tình. Hiện thực chủ nghĩa, lẽ dĩ nhiên, nhưng vượt lên trên là viễn ảnh, là tầm nhìn xa của nhà văn; với Mahfouz, đó còn là một tấm lòng trắc ẩn của một con người có niềm tin vào Thiên chúa giáo. Hiện nay ông nổi tiếng khắp thế giới, hoặc như là một nhà văn hiện thực xã hội theo kiểu Balzac, hoặc như một người kể chuyện huyền hoặc (a fabulist) từ Ngàn Lẻ Một Đêm bước thẳng ra. Nhưng có lẽ đúng nhất, là đề nghị của tiểu thuyết gia người Lebanon, Elias Khoury; ông coi đây là một dạng lịch sử về thể loại tiểu thuyết, từ giả tưởng mang tính lịch sử tới chuyện diễm tình, chuyện nhiều tập, chuyện gươm đàn nửa gánh tiếu ngạo giang hồ, theo sau đó, là một tác phẩm với đủ kiểu: hiện thực, hiện đại, tự nhiên, biểu tượng, và phi lý (a kind of history of the novel form, from historical fiction to the romance, saga, and picaresque tale, followed by work in realist, modernist, naturalist, symbolist, and absurdist modes).

 Hơn nữa, mặc dù bề ngoài dễ đọc, Mahfouz là một thế giá rất phức tạp, rất vi diệu (sophisticated): ông không chỉ là một “tay chơi” ngôn ngữ Ả Rập (an Arabic stylist), mà còn là một sinh viên cần cù theo dõi tiến trình xã hội, và tri thức luận. Said cho rằng, thế giá này là số một, có lẽ độc nhất vô nhị trên thế giới. Những cuốn tiểu thuyết “được gọi là hiện thực xã hội” của ông, từ đó danh vọng ông nổi lên như cồn, không chỉ là một tấm gương phản ánh mang tính xã hội, thuận lý về một Ai Cập hiện đại; chúng còn là những toan tính thật táo bạo vén màn bí mật về cuộc thi thố quyền lực. Bắt phong trần phải phong trần, vì vậy, quyền lực này có thể đến từ ông Trời, như trong ngụ ngôn Awlad Haritna (Những đứa con của Gebelaawi), xuất bản năm 1958 nhưng bị nhà cầm quyền Ai Cập cấm đoán cho tới mấy năm gần đây. Đây là chuyện một đại điền chủ, một thứ ông trời, đã cấm đoán con cái của mình không được vào Thiên Đàng, không được nối ngôi ông, cũng không được tham gia đảng phái chính trị, đại học, nhân viên bàn giấy nhà nước vv…

 Nhưng như vậy không có nghĩa là những tiểu thuyết của Mahfouz được hướng dẫn bởi những nguyên lý trừu tượng, mà ngược hẳn lại, nếu không, chúng đã không gây ấn tượng mạnh mẽ ở những độc giả Ả Rập, thoạt kỳ thuỷ, và bây giờ, là cả thế giới.

 Mục tiêu mà Mahfouz muốn nhắm tới, theo Said: ông muốn những tư tưởng nhập thân hoàn toàn vào những nhân vật, vào những hành động của họ; không một điều gì mang tính lý thuyết bị bỏ qua không được đem ra thi thố. Nhưng điều luôn luôn làm Mahfouz ngỡ ngàng, đó là, Cái Tuyệt Đối – với một người Hồi giáo, đó là Thượng Đế, như là quyền năng tối hậu – bằng cách nào nó bắt buộc trở thành vật chất, và không thể khôi phục lại được (the way the Absolute – which for a Muslim is of course God as ‘the’ ultimate power – necessarily becomes material and irrecoverable simultaneously), như  khi vị đại điền chủ ra lệnh cấm đoán con cái, thế là chúng cứ muôn đời lưu vong, mặc dù ông bố đã thối lui vào trong pháo đài, hay căn nhà của ông, một căn nhà mà những đứa con vẫn có thể nhìn thấy, từ đất đai của họ.

 Cuốn tiểu thuyết Malhamat al Harafish (1977), (Epic of the Harafish)  mở rộng ra, và đào sâu hơn, đề tài trong Những đứa con của Gebelaawi. Bằng vào khả năng ngôn ngữ tinh tế, Harafist có thể chuyển dịch (translate) Cái Tuyệt Đối vào trong câu chuyện, nhân vật, biến động, nơi chốn… nhưng cùng lúc, bởi vì cái tuyệt đối là nguyên lý đầu tiên của sự vật, cho nên nó ương ngạnh, cứng đầu, vẫn giấu biệt cội nguồn của nó, giống như một cái gì lơ lửng, gây nhức nhối, dằn vặt. Cái sống, cái cảm nhận đều hiển nhiên, cụ thể, nhưng thật khó tóm bắt mặc dù được bầy tỏ thật chi ly theo dòng văn xuôi thật đặc biệt của ông. Cũng vậy, sự hiện diện đầy quyền uy của ông bố ở trong Tam Khúc Cairo như treo lơ lửng bên trên mọi hành động của ba thế hệ con cái tiếp theo nhau, sau khi ông đã chết. Quyền uy của ông cứ thế nhạt nhòa đi, như thể ông lui dần về pháo đài, nhưng vẫn lơ lửng đâu đó, kết quả là, tới cuối chuyện, bạn cảm thấy vừa nuối tiếc – về những gì xẩy ra cho những nhân vật ở trong đó -  vừa hy vọng, mong trở lại với mở đầu câu chuyện. Tác giả như muốn giải thích tiến trình này, bằng một đoạn có tên là “Một thông điệp”, trong cuốn Những tiếng dội từ một Tự thuật” (Echoes from an Autobiography, 1994): “Sự độc ác của hồi ức tự nó biểu lộ qua tưởng nhớ những gì bị xoá nhoà qua quên lãng.” (The cruelty of memory manifests itself in remembering what is dispelled in forgetfulness). Mahfouz là một người ghi nhận chính xác bước đi của thời gian. Một ghi nhận chính xác, đừng mong cứu chuộc, nhưng với phán đoán cao độ.