*

TƯỞNG NIỆM





Nhà Thơ Thanh Tâm Tuyền

Trần Khải

- Đó là những dòng chữ dị thường cho một thời đại cũng dị thường. Thơ và truyện của Thanh Tâm Tuyền không dễ đọc, sức phổ biến cũng không rộng rãi, nhưng ảnh hưởng văn của ông cực kỳ sâu sắc và lâu bền. Thậm chí, chính những dòng chữ của ông đã thúc đẩy, hay xô tới để văn học Việt Nam thêm một đà phóng tới. 

Giữa lúc hào quang Thơ Mới của các cây cổ thụ tiền chiến vẫn còn sừng sững, vẫn vững vàng, với những Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Huy Cận, Chế Lan Viên, Đông Hồ... thì một làn sóng khác trào lên -- nền Thơ Tự Do ra đời, với Thanh Tâm Tuyền là ngừơi đi đầu, rất là kiệm lời nhưng mỗi dòng đều mang một sức mạnh. 

Đúng vậy. 

Có những câu thơ chúng ta đã đọc của ông từ thời thơ dại, từ nhiều thập niên trứơc, và rồi không quên được. Một hôm, trong một nỗi nhớ, trong một nỗi đau, trong một hình ảnh sợi tóc năm xưa vương vấn... các dòng thơ của Thanh Tâm Tuyền lại hiện về. Như một thời, khi mới lớp đệ tam hay đệ nhị (lớp 10 hay 11 bây giờ), cậu học trò đã đọc và suốt đời không quên được:

... Ôm em trong tay
mà đã nhớ em ngày sắp tới... 

Thơ của Thanh Tâm Tuyền mãnh liệt như vậy đó. 

Tuy thơ ông hầu hết làm theo thể tự do, nhưng điều dị thường là các bài được phổ nhạc từ nhiều thập niên trứơc đã ngay lập tức trở thành bất tử. Thí dụ, như bài Đêm của ông được Cung Tiến phổ nhạc. Hay bài thơ Dạ Tâm Khúc được Phạm Đình Chương phổ nhạc. Và sau này ra hải ngoại, là 10 bài thơ Thanh Tâm Tuyền được Cung Tiến phổ thành tập “Vang Vang Trời Vào Xuân.” 

Ai nói rằng thơ Thanh Tâm Tuyền khó nhớ? Ngay khi vừa phổ nhạc xong, các ca khúc đã có ngay một vị trí riêng, độc đáo, khác biệt và vào ngay một cõi thơ mộng của đời người. 

Nhưng không phải ai cũng say mê Thanh Tâm Tuyền. Đúng là vào cái thời tiền chiến khi Thơ Mới ngự trị, thơ ông thực sự là khó nhớ, lạ lùng. Không vần, hay nói cho đúng, là có một vần điệu riêng của ông, của trí tuệ ông, của một tâm hồn rất mực thơ mộng Thanh Tâm Tuyền. Thử trích:

...Anh sợ những cột đèn đổ xuống.

Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta 

Bóp chết mọi hy vọng

Nên anh dìu em đi xa.

 Đi đi chúng ta tới công viên

 Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối

 Ôi môi em như mật đắng

 Như móng sắc thương đau

 Đi đi anh đưa em vào quán rượu

 Có một chút Paris

 Để anh được làm thi sĩ

 Hay nửa đêm Hà Nội

 Anh là thằng điên khùng

 Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới

 Chiếc kèn mãi than van

 Điệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng….

 Điều lạ lùng nữa: truyện Thanh Tâm Tuyền cũng có một sức mạnh cách tân. Tôi vẫn còn nhơ lần đầu tiên, khi đọc truyện Bếp Lửa, và rồi trong nhiều năm sau đã tìm mua cuốn này ít nhất 2 lần nữa, khi cuốn truyện bỗng nhiên mất tăm ở đâu. Truyện ông thừờng dùng câu ngắn, có khi câu không đầy đủ, câu phần mảnh, ít sử dụng tĩnh từ và trạng từ, hầu hết là danh từ và động từ... cho nên ngay lập tức, bút pháp truyện của Thanh Tâm Tuyền đã lập riêng một cõi lạ thường.

 Thí dụ, thử trích cuốn “Bếp Lửa” nơi đây:

 “...Tôi rùng mình gần như đứng lại vì lạnh.

 Có lẽ lạnh, không phải vì câu nói bâng quơ ấy? Sắp sửa đến ngày giỗ mẹ.

 Thanh hát nhỏ, rất nhỏ trong cổ họng, điệu quen thuộc, tôi đã nghe. Trở về mái nhà, xưa.

 Bảo bỗng nói với Thanh:

 "Từ ngày cô hát trên đài chưa bao giờ tôi được nghe cô cả."

 Thế thì không bao giờ anh được nghe nữa vì tôi đã giải nghệ."

 Nga: giải nghệ?

 Thanh: chứ sao!

 Tôi đợi đến một ngã tư mới nói:

 "Không, cô nên hát."

 Thanh nhại:

 "Không, cô nên giải nghệ."

 Từ đấy không ai nói ai một lời.

 Thanh cứ hát nhỏ như cho mọi người nghe lần cuối. Hàng phố bé lại trong đêm khuya và lùi xa như tiếng hát.

 Khi cánh cửa đã đóng sau lưng Thanh và Nga, tôi còn nghe tiếng hát ấy ở trên tay tôi. Trở về mái nhà.

 Xưa.

 Còn lại hai người đàn ông đi chân về ngoại ô....”

 Thực sự là một bút pháp lạ thường. Giữa trưa nắng Sài Gòn, tôi, lúc đó là một học trò trung học, tay cầm sách và run rẩy đọc, cảm nhận được hơi lạnh từ bối cảnh cuả các nhân vật Hà Nội, Hải Phòng, Phủ Lý... Kỳ lạ, suốt cả đoạn văn trích trên, chỉ có vài tĩnh từ: lạnh, xưa, nhỏ, bé...

 Và khi dùng tĩnh từ “xưa” thì lại biến văn xuôi thành thơ...

 Thanh Tâm Tuyền cũng đi chung nhịp với lịch sử. Ông đã giận dữ khi lính Liên Xô đưa xe tăng vào Budapest, và làm các dòng thơ:

 "Hãy cho anh khóc bằng mắt em.

 Những cuộc tình duyên Budapest.

 Anh một trái tim em một trái tim

 Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác

 Hãy cho anh giận bằng ngực em

 Như chúng bắn lửa thép vào

 Môi son họng súng...”

 Rồi một thời, ông bước vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, rồi về nguyệt san Quốc Phòng. Nhưng rồi lịch sử sẽ nhớ mãi Thanh Tâm Tuyền với tạp chí Sáng Tạo, nơi những dòng thơ mở đường cho một phong trào thi ca mới. Nơi đó là truyện Bếp Lửa, thơ “Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy...”

 Và rồi khi miền Nam thất thủ, Thanh Tâm Tuyền đi tù, và hướng về lại thể loại thơ lục bát, thơ có vần... những dòng thơ dễ dàng đưa vào trí nhớ, ở một nơi không ai tìm ra giấy bút. Và rồi hôm Thứ Tư 22-3-2006, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền đã từ trần tại tiểu bang Minnesota, nơi cũng lạnh như một thời Hà Nội.

 Xin từ biệt nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.

 Và trân trọng cảm ơn người đã viết những dòng chữ lạ thường, giữa một thời đại cũng hết sức lạ thường của dân tộc Việt Nam.

 (Ghi chú: Một số thơ, văn ở trên là trích từ www.tanvien.net và www.thotanhinhthuc.com/)