Bùi Vĩnh
Phúc
Thanh Tâm
Tuyền, người thi sĩ ấy
1
Một
buổi chiều, một buổi chiều nào đó,
như tất cả những buổi
chiều ta đã lang thang trên xứ lạ, như tất cả những buổi chiều mặt trời
rơi
xuống xoáy buồn vào trái tim, ta nhìn đời sống mình bốc khói. Khói cay
ngun
ngún cháy đi tất cả những ngày đã qua, cháy đi những mộng tưởng cũ kỹ,
những hè
đường đầy lá úa ướt át, những dòng sông thở nồng mùi gỗ mục. Đời đã
ngun ngún
cháy đi những giây phút hạnh phúc đẹp đẽ và mơ mộng nhất của ta, cháy
đi những
cửa sổ mở tung nhìn con chim bay trên trời, những ngõ hẹp cất giấu bóng
chiều
âm ỉ, và khuôn mặt em, khuôn mặt ướt mưa mà hai bàn tay ta đã nâng niu
như một
cánh hoa gần. Trong mắt em ta nhìn thấy ngoài kia cơn mưa chụp xuống
giăng kín
buổi chiều. Em chớp mi, và bầu trời phủ đầy bóng tối. Một bóng tối thơm
ngát
mùi hoa chanh.
Một
buổi chiều, một
buổi chiều nào đó, giam mình giữa dòng
xe cộ trùng điệp của giờ tan sở, để chiếc xe tự động lăn theo dòng nối
tiếp mệt
nhoài, tâm tư ta lại nhớ về những buổi chiều cũ ở quê nhà. Những buổi
chiều đã
ngun ngún bay đi. Bay đi như khói thuốc, như hương khói mùa xưa. Những
buổi
chiều trời thắp mãi tiếng mưa sầu. Làm thế nào để quên được nhau. Hạt
mưa kia
long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt...
Ta
chợt nhớ đến người
thi sĩ ấy. Thanh Tâm Tuyền. Bây giờ,
ông đang nuôi những cơn mộng nào. Ông đã sống như thế nào giữa lòng quê
nhà mưa
bay gió thổi [1] . Ông nhìn ngắm như thế nào những con đường, những
buổi chiều,
những băng đá, những dòng sông, những thành phố ngày xưa. Trời thì còn
mưa, mưa
mãi. Mưa rơi ướt những hoài vọng, những ước mơ, và bóng tối như đang đổ
xuống
không cùng. Ta muốn bật một que diêm để cùng Thanh Tâm Tuyền nhìn lại
những
buổi chiều cũ, có hơi ấm ngày xưa.
Buổi
chiều vào chật
khoang xe. Đèn thắp lên
Tiếng
máy nổ bỗng thành tiếng cười dài
Mưa
xuống bên ngoài, ngoài cửa sổ.
Những bàn tay níu lấy
vòng sắt lạnh
Mỗi
ngày chúng ta đứng bên nhau không
quen nhau
Thân
mật ngó lên mái tóc rối nền trời
khuya
Ngó
vào mắt hoang xa dòng sông không
bờ
(...)
Chuyến
xe buýt chạy trong buổi chiều.
Trời mưa, mưa ngoài
châu thành.
Không
tìm thấy bến không đỗ lại
Vai
áo đã ướt đầy
Tóc
em rét mướt
Một
ngày mới bắt đầu với tờ báo phát
hành sớm gói trên tay.
Xe
còn chạy mưa hoài dòng sông hoang
mắt bỏ cố níu lấy cửa
xe...
(“Một
chỗ trên ô-tô-buýt”)
Que diêm đã bật lên
rồi đó, chúng ta có ngửi thấy hơi ấm quê
nhà? Ôi, một chiều mưa, mưa rơi ngoài châu thành, chiếc xe buýt xanh
chạy vào
trái tim, dòng sông và những chấm mưa lổ đổ, buổi chiều xanh lơ màu
sương khói,
vai áo em mềm ướt hồng da thịt, vùng tóc rối rét đầy. Em hiền, em hiền
như bánh
không men, như ngọn tháp giáo đường ngoài xa kia vươn lên như một búp
nến. Hơi
lửa nhỏ nhẹ cháy vào lòng ta rét mướt. Xe chạy hoài dòng sông nuối mắt.
Búp nến
buồn hiu hắt những hơi mưa. Sợi tóc quệt ngang vành môi theo đường bay
của gió.
Những con chim bay vào cõi sa mù.
*
Tôi
muốn viết về
Thanh Tâm Tuyền như ông vẫn còn đang đứng ở
đó, bên một cây cầu hay một dòng sông, tay sờ lên đường viền của những
vòng sắt
lạnh. Tôi muốn viết về ông như viết về những kỷ niệm của mỗi một chúng
ta. Tôi
không nghĩ là thơ ông đã tạo được những rung động trong đông đảo quần
chúng hay
được tất cả những người thưởng ngoạn, những người làm văn nghệ thời đó
nhất trí
chấp nhận như một giá trị hiển nhiên. Thanh Tâm Tuyền, và một vài người
khác
cùng thời với ông, đã có công giới thiệu và làm bùng nở một dòng thơ tự
do đầy
sức sống trong một giai đoạn phát triển của văn học miền Nam.
Trong cái
nhiệt tình thắp lửa, có những lúc có thể là ông đã phát biểu cái tiếng
nói thơ,
chuyên chở tâm tình và sự suy tư của ông, ở những cung bậc quá khác lạ
với
những âm điệu vẫn được những người khác - những người cùng sốg ở một
thời đại
với ông - thường dùng.
Thanh
Tâm Tuyền đã được yêu thương, ca
tụng cũng như đã bị
lên án và chối bỏ trong những năm ông bám lấy thơ, coi thơ như một cung
cách
sống, một nỗ lực để có thể sống cái đời sống của mình một cách trọn
vẹn. Ngoài
một số những bài thơ làm sau giai đoạn 1964, chưa được in thành tập,
những bài
thơ tiêu biểu nhất của ông, làm trong những giai đoạn trước đó, đã được
ông thu
góp trong hai tập Tôi không còn cô độc (1955) và Liên-đêm-mặt trời tìm
thấy
(1964). Hai tập thơ đã trình bày trước độc giả con người của Thanh Tâm
Tuyền
một cách khá rõ nét. Kiêu căng, ngạo mạn, lạnh lùng, cô độc, cô đơn, cô
lữ,
lãng mạn, tha thiết, dằn vặt, yêu thương, khô khan, bùng cháy, mệt mỏi,
hoài
nghi, thất vọng, siêu hình, trong sáng, rắc rối, phức tạp, xót xa, phẫn
nộ...
Đó là một số từ chúng ta có thể dùng để nói về thơ Thanh Tâm Tuyền, về
Thanh
Tâm Tuyền. Ông đã sống thiết tha và vũ bão như vậy. Có những lúc ông
cũng đã
cảm thấy mệt mỏi, hoài nghi, và thất vọng, nhưng trong tất cả những
trạng thái
sống đó, tôi chưa từng thấy ông sợ sệt.
Như
con sư tử và như đứa trẻ thơ
(đúng, Thanh Tâm Tuyền cũng
có đôi khi như thế) của Nietzsche, Thanh Tâm Tuyền đi vào đời sống với
tất cả
những say đắm, yêu thương, thơ dại và phẫn nộ chất chứa trong hồn ông.
Ông đã
được yêu ghét thế nào, chúng ta chắc chẳng cần nhắc lại. Hãy chỉ nhớ
là, bây
giờ, Thanh Tâm Tuyền vẫn đang ở tại quê nhà, vẫn còn canh giữ cho ta
những giấc
mộng cũ, và những bài thơ của ông, lang thang ở những xó góc tối tăm
nào đó của
đời sống, của trí óc ta, lâu lâu vẫn còn khua gõ những bước chân âm
thầm trở
về. Và ta lại nhìn ra những bóng mưa của thời gian xưa cũ, những dòng
sông vẫn
chảy lặng lẽ, mưa vẫn rơi, mưa rơi nhỏ nhẹ, mưa rơi ngoài châu thành.
Trái tim
ta ướt đẫm nước mắt...
Anh
ngắm hai bàn tay anh nhớ tàn lá về
chiều
Khóc
thờ ơ ngoài không trung.
*
Đọc
lại những bài thơ Thanh Tâm Tuyền,
tôi thấy mình yêu và
gần ông ở những bài, những đoạn, những ý ông nói về tình yêu. Thật ra,
bài nào
của Thanh Tâm Tuyền lại không có tình yêu trong đó. Tình yêu giữa nam
và nữ.
Tình yêu mến thiên nhiên, yêu thương con người nói chung. Tình yêu giữa
ánh
sáng và bóng tối, tình yêu đồng loại bị dồn nén bởi sự tàn ác, bất công
và nước
mắt - nổ bùng ra thành phẫn nộ. Tình yêu làm Thanh Tâm Tuyền trở nên
lãng mạn,
và đau khổ, nhục nhằn. Tình yêu xót xa hoà chung với sự đau khổ vì nỗi
đời, vì
mệnh nước.
Nói
như thế có nghĩa là tôi gần như
yêu hết tất cả những bài
thơ của Thanh Tâm Tuyền, vì có thể nói bài thơ nào của ông mà lại không
chứa
đựng tình yêu, tôi lại muốn nói một lần nữa như vậy. Dù sao, có những
bài thơ
trong đó ông đã đưa vào quá nhiều những hình ảnh, những tư tưởng siêu
hình, và
những điều đó, theo ý tôi, làm bài thơ ông mất bớt đi sự lôi cuốn. Điều
tôi
đang nói đây có thể là một điều kỳ lạ đối với một số người yêu thích
Thanh Tâm
Tuyền và nghĩ rằng thơ ông chủ yếu ở chỗ siêu thực, như thơ của Paul
Eluard, Breton, Aragon,
Rimbaud, Lautréamont... Thật sự, nói chung, thơ Thanh Tâm Tuyền đúng là
rất gần
với thơ của các nhà thơ siêu thực của Pháp; nhưng trong thơ của ông,
những bài
mà cảm tính và lý tính được diễn ra ở một mức độ cân bằng, hoặc nghiêng
nhiều
hơn về phía cảm tính, lại cuốn hút tôi hơn. Những bài quá nghiêng về lý
tính
không mời gọi tôi trở lại với chúng nhiều lần như những bài kia. Như
vậy, có
phải tôi là con người nghiêng nhiều về cảm tính? Tôi cũng không rõ.
Nhưng nếu
tôi là một mẫu người thích để cảm tính ngự trị, chắc tôi đã không chọn
con
đường đi vào phân tích, lý luận hay phê bình. Có lẽ, cuối cùng tôi đã
nghĩ,
không biết có phải là một sự bất công đối với Thanh Tâm Tuyền không, là
những
bài thơ quá nghiêng về lý tính của Thanh Tâm Tuyền, những bài thơ có vẻ
quá sức
siêu thực hay siêu hình của ông, làm cho tôi thấy ông bớt đi sự tự
nhiên, tự
tại của mình [2] . Những bài thơ ấy che giấu ông lại, thay vì mở ông ra
với nụ
cười tiếng khóc, với sự xót xa thương yêu, dằn vặt, phẫn nộ... của ông.
Mà
chính những điều ấy lại làm Thanh Tâm Tuyền gần gũi chúng ta hơn.
Hãy
đọc ít đoạn thơ cũ của Thanh Tâm
Tuyền, những lời thơ
rất cũ gõ cửa trái tim nàng kia, để thấy lại bóng dáng của tình yêu, sự
dịu
dàng của bóng tối, những xót xa, đau khổ của nỗi đời, mệnh nước đan kín
lấy
nhau.
Hỡi
Liên những Liên và Liên
Anh
muốn nghe một bài hát buồn - lời
anh không thành điệu -
muốn
nghe
một bản hát buồn. Thí dụ. Trưa
nắng giữa ngã năm ngã
sáu có
chợ
có ga, đường tàu mải miết. Bóng
tối lặng thinh em hát
lên
làm
sao mà chịu đựng, hoa lá chia sầu.
Một góc bàn anh hôn
màu
gỗ
trống.
Hỡi
Liên những Liên và Liên
Chẳng
là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ
quốc vậy em biết không.
Mà
tổ
quốc ngàn đời nín thở vì trời thì
xanh mà khổ đau nói sao
cho
hết.
Chẳng là anh chót yêu em vậy em
biết không? Mà khi yêu
nhau,
trong
những đêm sao hằng hà, làm thế
nào để quên được
nhau...
(“Nói
về dĩ vãng”)
Đôi
khi ở nơi đất lạ này, trưa nắng
giữa ngã năm ngã sáu có
chợ có ga, đường tàu mải miết, tôi chợt rưng rưng nhớ nhà. Tổ quốc ngàn
đời nín
thở vì trời thì xanh mà khổ đau nói sao cho hết. Người thi sĩ ấy đã cảm
ra
những điều xót xa bàng hoàng này từ những ngày xưa. Sự bén nhạy của
người thi
sĩ đã khiến cho chàng ta được gọi tên như những nhà tiên tri thấu thị.
Những
nhà tiên tri này lên tiếng báo trước định mệnh của con người. Định mệnh
có thể
mang hình một cây thập tự nhưng cũng có thể là sự phục sinh. Nó có thể
có mùi
vị ẩm mốc của những đám lá chết nhưng cũng có thể có mùi thơm mát của
những
giọt sương long lanh đầu lá. Lên tiếng nói về những điều đó là nỗi khao
khát
đồng thời cũng là chức năng của người thi sĩ. Thế nhưng, đối với những
chế độ
đòi hỏi sự đồng phục trong lề lối sống của những con người mà nó nắm
giữ, định
mệnh con người phải hiểu là của nhà nước và do nhà nước định đoạt, ban
phát.
Thi sĩ không có quyền cất lên tiếng nói để làm tròn chức năng cũng như
để thỏa
mãn những khao khát của chàng. Thi sĩ bị lưu đày khỏi quê hương hay bị
lưu đày
vào đời sống cùng khốn theo cả hai nghĩa đen và bóng. Ngày xưa, thời
Platon,
người ta trịnh trọng và lễ phép (giả hình) choàng vòng hoa vào cổ người
thi sĩ,
rồi đuổi họ ra khỏi xứ sở. Bây giờ, người ta không cần triết học, người
ta vất
bỏ sự lễ phép (giả hình và không giả hình), người ta tóm lấy cổ thi sĩ
và tống
chàng vào ngục. Hãy vào trong ngục mà rao giảng cho bóng tối lòng yêu
thương và
những điều tiên tri của ngươi, hỡi kẻ thi sĩ kia. Trong vùng bóng tối
đó, ngươi
hãy nói lên sự thấu thị của ngươi. Đâu là sự thật của cuộc đời? Mặt
trời đang
lên ngoài kia, và ngươi là kẻ ngồi trong bóng tối. Hỡi kẻ thi sĩ kia,
ngươi
không sản xuất ra của cải vật chất, ngươi đòi lên tiếng nói năng gì?!!
Ngày
xưa, người thi sĩ đã phẫn nộ, đã
hét lên, đã run lên,
đã giận dữ, đã tràn nước mắt... vì những kẻ đòi độc quyền ban phát sự
thật như
thế. Hãy nhớ về Hung gia lợi, 1956.
Hãy
cho anh khóc bằng mắt em
Những
cuộc tình duyên Budapest
Anh
một trái tim em một trái tim
Chúng
kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy
cho anh giận bằng ngực em
Như
chúng bắn lửa thép vào
Môi
son họng súng
Mỗi
ngã tư mặt anh là hàng rào
Hãy
cho anh la bằng cổ em
Trời
mai bay rực rỡ
Chúng
nó say giết người như gạch ngói
Như
lòng chúng ta thèm khát tương lai
Hãy
cho anh run bằng má em
Khi
chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa
những ngón tay vào nhau
Thân
thể anh chờ đợi
Hãy
cho anh ngủ bằng trán em
Đau
dấu đạn
Đêm
không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng
tấn công hoài những buổi sáng
Hãy
cho anh chết bằng da em
Trong
giây xích chiến xa tội nghiệp
Anh
sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi
những người kế tiếp
Hãy
cho anh khóc bằng mắt em
Những
cuộc tình duyên Budapest
(„Hãy
cho anh khóc bằng mắt em những
cuộc tình duyên Budapest“)
Phẫn nộ là phẫn nộ trước sự đè nén, áp
bức và dối trá, bưng
bít sự thật. Sự thật của người thi sĩ, sự thật cháy hoài trong trái tim
người
thi sĩ là gì? Đó là tình yêu. Tình yêu trong tất cả mọi thể thái và lốt
vỏ của
nó: hạnh phúc, đau khổ, hoang mang, xót xa, hoài nghi, tuyệt vọng, rạng
rỡ, âm
u, hơi thở, tiếng cười, ngọt ngào, cay đắng, gần gũi, cách xa, dịu
dàng, hung
bạo, phương phi, rực rỡ, mệt mỏi, chán chường...
Hãy
khép mắt khép mắt thật khẽ
Có
thấy chúng ta rơi vào giấc ngủ sâu
vào những giấc mơ
Hương
hoàng lan lẫn mái tóc người yêu
Xa
thành phố bỗng lạc đường
Tại
sao cánh rừng cháy tôi một mình
Người
nào ngủ đây người nào chết đây
thân xác tan tành
Hãy
khép mắt khép thật kín
Và
chúng ta rơi vào cơn ác mộng một
mình
(„Khai
từ của một bản anh hùng ca“)
Em
gối đầu sương xuống
Chuyện
trò bằng bóng hình
Tôi
đẹp như hình tôi
Như
cuộc đời
Như
mọi người
(...)
Em
là lá biếc là mây cao là tiếng hát
Sớm
mai khua thức nhiều nhớ thương
Em
là cánh hoa là khói sóng
Đêm
màu hồng
(„Bài
ngợi ca tình yêu“)
Tình
yêu trong thơ Thanh Tâm Tuyền ít
khi được nhìn thấy
dưới một khía cạnh vẹn toàn. Tình yêu ấy luôn luôn xao động, sấp ngửa
giữa ánh
sáng và bóng tối, giữa chúm môi lá biếc những chòm hôn vội vàng và con
đường đi
buổi chiều hấp hối, ôi buổi chiều sương mù, giữa những
Ngón
tay âm thầm trò chuyện
Những
bước chân thỏ rừng
Chạy
trên cỏ sắc
Sợi
tóc đen như một chuỗi cười
và:
(...)
Điếu
thuốc bỗng trở niềm hắt hủi
Khói
tím buồn
Vì
chiều theo chân em sang bên kia đồi
Nụ
cười mang theo
(...)
Em
có biết sau lúc em từ biệt
Điếu
thuốc cháy trên môi như người bạn
chết
Hơi
nóng khô nhành củi gẫy tàn...
Tình
yêu trong thơ Thanh Tâm Tuyền còn
là tình nhân ái, là
lời yêu thương cho những con người cô độc, lẻ loi, trong bóng tối chảy
thảm
giọt lệ sầu. Thi sĩ khi nghĩ đến mình, đồng thời, chàng nghĩ đến những
người
xung quanh. Nhìn cuộc lênh đênh chìm nổi của người khác, chàng nghĩ đến
cuộc
lang thang, nỗi cô đơn của chính mình. Những
mơ-ước-hoài-nghi-ngọt-ngào-cay-đắng-thiết-tha cứ thế quyện lấy trái tim
chàng.
Tôi
biết những người khóc lẻ loi
không
nguôi một phút
những
người khóc lệ không rơi ngoài
tim mình
em
biết không
lệ
là những viên đá xanh
tim
rũ rượi
đôi khi anh muốn tin
ngoài
đời chỉ có trời sao là đáng kể
mà
bên những vì sao lấp lánh đôi mắt
em
đến
ngày cuối
đôi
khi anh muốn tin
ngoài
đời thơm phức những trái cây của
Thượng Đế
mà
bên những trái cây ngọt ngào đôi
môi em
nguồn
sữa mật khởi đầu
đôi
khi anh muốn tin
ngoài
đời đầy cỏ hoa tinh khiết
mà
bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
vòng
ân ái
đôi
khi anh muốn tin
ôi
những người khóc lẻ loi một mình
đau
đớn lệ là những viên đá xanh
tim
rũ rượi
(„Lệ đá xanh“)
Trong
ngôn ngữ tình yêu của Thanh Tâm
Tuyền, những sợi tóc
không còn chỉ là những sợi tóc, những sợi tóc đen như một chuỗi cười.
Những
giọt lệ không còn là những giọt lệ, nhưng lệ là những viên đá xanh. Và
môi em
là trái cây ngọt ngào. Cánh tay, thân thể em là cỏ hoa quyến rũ. Buổi
chiều
không còn đứng yên, nhưng chiều theo chân em sang bên kia đồi. Và bệnh
viện mắt
kín mưa đêm. Đêm trong thơ Thanh Tâm Tuyền, như thế, có một thân xác và
một
linh hồn.
Đêm
hiền từ nhỏ to trên trán
Màu
đen sáng đủ ngó vào nụ cười
Có
đấy không này em mưa chan hoà
Trên
ngực trên ngực em bát ngát
Thân
thể người con gái, người đàn bà
trở thành một cái gì
vừa cụ thể, gần gũi, có thể ăn cắn như một thứ trái cây, có thể ngửi
được, vùi
đầu vào được, sờ mó, nâng niu, vuốt ve được..., vừa trở nên một cái gì
trừu
tượng hoặc thanh thoát xa vời:
Da
trắng như tiếng hát ở trên trời...
Anh
cúi xuống hôn cánh môi tím màu đêm
mà thương nhớ...
Đừng
trói anh vào trần gian bằng mắt
em nhìn kia...
Người
đàn bà rũ tóc thành một cơn bão
mặn
Hương
nồng chiều dòng kinh mùa hè...
Tất
cả những sự chuyển dịch, biến hoá
từ hơi thở của tình
yêu ấy luôn luôn kéo thi sĩ vào thiên nhiên. Một thiên nhiên khi thì
trong
xanh, bừng lên sáng sủa như một tiếng chim, nhưng cũng có những lúc cái
thiên
nhiên ấy lại chỉ hiện ra ở những hình thể sắc cạnh, chỉ là những khối
gỗ, sắt
vô tri.
Trước
hết, đây là thiên nhiên mềm, mở
tung cửa sáng vào trời
xanh. Tiếng mưa gõ nhịp lách tách vào mắt em.
(...)
Cửa
sổ trời những mắt chưa quen
trán
hoang đồng cỏ
run
đường môi kỷ niệm
đi
qua những thành phố đầy tim
cười
đổ mưa một mình
(„Của
em“)
Hay
là thiên nhiên của mùa về với
những bông mía trắng phất
phơ hay đám lau buồn lắt lay trong gió.
(...)
Ai
xui rằng mùa măng chưa tới
Mà
mùa về măng thôi chẳng ngọt
Vườn
măng rừng tháng sáu đêm sâu
Muốn
làm người học trò mười bảy tuổi
Đạp
xe trên đường đồng
Bông
mía trắng những căn nhà ngủ dưới
cây...
(„Bao
giờ“)
(...)
Tuổi
ấu thơ hòn cù lao xa khuất
Và
tình yêu như đám lau buồn
Vàm
sông nước xoáy như tiếng cười thầm
Ở
sau lưng ở trước mặt
Anh
thả người trôi nổi
(„Sầu
khúc“)
Đó
là những mảnh thiên nhiên hiền
lành, thơ mộng, hoặc buồn
bã, nhưng trong chúng, người ta vẫn thấy một cái gì thân mật, gần gũi.
Nhưng đó
là khi con người còn giữ lại được mình. Khi người ta cảm nhận được sự
mất mát,
xa lạ của mình đối với chính mình, khi người ta thấy mình đang bị cái
thiên
nhiên của sắt thép gỗ đá, của tiếng cơ khí chạm vào nhau và phát ra
tiếng kêu
của một loài sắt lạnh, của những cao ốc, những cột đèn... bao phủ lấy
họ, người
ta không còn thấy được nét mềm mại thơ mộng của thiên nhiên nữa.
Anh
sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi
dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp
chết mọi hy vọng
Nên
anh dìu em đi xa
Đi đi chúng ta đến công viên
Nơi
anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi
môi em như mật đắng
Như
móng sắc thương đau
Đi
đi anh đưa em vào quán rượu
Có
một chút Paris
Để
anh được làm thi sĩ
Hay
nửa đêm Hà Nội
Anh
(...) ôm em trong tay mà đã nhớ em
ngày
sắp tới.
Chiếc
kèn hát mãi than van
Điệu
nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao
tuổi trẻ quá buồn
Như
con mắt giận dữ
Sao
tuổi trẻ quá buồn
Như
bàn ghế không bầy...
(...)
Anh
đưa em đi trốn
Những
dày vò ngày mai
(“Dạ
khúc”)
Khi người ta ý thức được tình trạng bị
mất mát, bị xâm
chiếm, bị tha hóa của mình thì người ta hoặc là chạy trốn, hoặc chống
cự lại,
hoặc là trở nên chai lì, mất hết rung động trước những hiện hữu quanh
mình.
Lòng trở nên dửng dưng, hoang vắng.
(...)
Vứt
mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng
sông
Mà
lòng mình phơi trên kè đá
Con
thuyền xuôi
Chiều
không xanh không tím không hồng
Những
ống khói tàu mệt lả
(“Bao
giờ”)
Trước một đời sống đang bị cuộn tròn
vào tiếng cười của cơ
khí, của tiếng động cơ xô anh vào bẫy, trên cát lầy lún mãi, tuổi thiếu
niên
chạy về nhảy múa trên tóc anh và gọi, có những lúc người thi sĩ đã dửng
dưng
một cách xót xa như thế, buổi chiều bây giờ trở thành dửng dưng, như
lòng ta
dửng dưng nhìn những ống khói cơ khí kia kiệt sức. Màu sắc thường làm
dậy lên
những rung động trong hồn người. Buổi sáng sắc xanh, buổi trưa sắc
trắng, buổi
chiều sắc tím, hay hồng. Cũng có khi yêu đời, người ta thấy buổi chiều
sắc
xanh, hoặc đang yêu người, ta thấy chiều lên sắc hồng; còn khi người ta
buồn
hoặc để lòng mình lãng mạn vu vơ bập bềnh tiếng sóng, người ta thấy
chiều tím.
Chiều không xanh không tím không hồng, ấy là
chiều đã không còn
chỗ trú ngụ trong lòng người. Chiều đã đi ra ngoài trí nhớ. Chiều đã
trở thành
một thực thể biệt lập, ngoại tại. Và chiều dửng dưng:
Em
biết không?
Em
biết không?
Trong
ngục tù giam giữ những than van
Người
ta kêu một mình
Thành
tiếng động rửng rưng đống sắt rỉ
hoen rơi đổ
Não
óc anh hàng chấn song nguyền rủa
Khi
em đi qua những đường phố dẫm nát
những giấc mộng theo
đòi
Hy
vọng dội lên trong mọi hồi trống
rỗng
Anh
ngắm hai bàn tay anh nhớ tàn lá về
chiều
Khóc
thờ ơ ngoài không trung...
(“Sầu
khúc”)
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Bài
này được viết vào năm 1986, khi
Thanh Tâm Tuyền còn
sống tại Việt Nam, chưa định cư tại Mỹ.
[2]Thật
ra, có thể nói tính chất siêu
thực thường không dung
nạp lý tính. Siêu thực ở ngoài lý trí. Thế nhưng, những đoạn thơ mà
nhiều người
nghĩ có vẻ “siêu thực” nhất của Thanh Tâm Tuyền lại chứa đựng đầy lý
tính. Và
hình ảnh trong những bài này thường mang màu sắc ẩn dụ. Xin xem
Liên-đêm-mặt
trời tìm thấy ở các bài “Hơi thở”, “Thành phố”; “Bài không tên” ở trang
72,
đoạn 10,; “Sầu khúc”, đoạn 5; “Từ chối”; “Bài không tên” trang 113-123.
Nguồn:
Đăng lần đầu trên nguyệt san Văn Học, California, 1986. In lại
trong Lý luận và phê Bình / Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước
1975-1995 của
Bùi Vĩnh Phúc, nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1996. Đăng lại trên
talawas
với một số thay đổi và bổ túc của tác giả.
Trích
talawas