Nhớ Thanh
Tâm Tuyền...
Phan Lạc Phúc
Sao dạo này, cuối năm Dậu đầu năm
Tuất, anh em, bạn hữu tôi
"đi" nhiều đến thế: Phạm Huấn, Nguyễn Sĩ Tế, Nguyễn Hiền, Vũ Đức
Vinh... Chưa kịp đau buồn người này đã nhớ thương người khác. Bây giờ
lại một
cái tin "sét đánh" nữa, Thanh Tâm Tuyền vừa mới tạ thế ngày 23 tháng
3 năm 2006 hồi 11 giờ 15 tại Minnesota, Hoa Kỳ, hưởng thọ 71 tuổi.
"Nhân sinh
thất
thập cổ lai hi", ở tuổi ấy cũng là đến cõi rồi nhưng ở Mỹ bây giờ 70 là
còn trẻ, nhiều người còn đi làm mà cũng không thấy nói đau yếu gì, đùng
một cái
bạn ta dời bỏ cuộc chơi. Một cái chết im lặng, đột ngột và quyết liệt.
Môt cái
chết rất "Thanh Tâm Tuyền".
Nói đến Thanh Tâm Tuyền (TTT) cây bút
chủ lực của Sáng Tạo,
người ta gọi, TTT là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch đã đưa một thẩm mỹ
mới,
một hơi thở mới đến cho văn nghệ miền Nam. Không phải là một nhà phê
bình văn
học, tôi không dám có ý kiến về vấn đề này, nhưng tôi có may mắn được
sống, làm
việc bên anh những năm anh ở trong Quân đội, những ngày lao tù cải tạo
và thời
gian "nín thở qua sông" ở VN nên tôi nhìn anh khác. Tôi là một người
bạn "đời thường" của TTT hơn là môt người bạn văn. Với cái nhìn này,
TTT đối với tôi là một người đọc sách chuyên cần, một nhà trí thức khắc
kỷ.
Vào khoảng 1957, 1958 tôi có theo một
bậc đàn anh của tôi
cũng là đồng hương Sơn Tây, anh Nguyễn Huy Tạo bút danh Trần Lê Nguyễn,
tới
chơi nhà TTT ở ngõ Đỗ Thành Nhơn sau tòa Bố chánh Gia Định. Cụ bà thân
mẫu TTT
có 2 ngôi nhà trong ngõ hẻm này. Tôi nhớ phải trèo những bậc thang xanh
rêu có
hoa khế tím rụng đầy mới lên tới căn phòng TTT ở. Chúng tôi tới nói
phiếm, uống
café, đôi khi rút "xì còm" với Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Vũ Duy
Hiền... Căn gác có họa phẩm của Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng treo
đầy, đặc
biệt có rất nhiều sách. Cuộc sống của chủ nhân khá đơn giản nhưng sách
vở, trái
lại, rất phong phú. Cái giá sách đã tỏ
ra chật hẹp, sách nhiều pho, nhiều tập đã phải xếp xuống sàn. Sách Pháp
(như
trào lưu ngày đó) chiếm ưu thế. Một bữa nhìn qua đống sách tôi nhận
thấy khá
nhiều tập nghiên cứu và phê phán chủ nghĩa Cộng sản từ Tư bản luận đến
Duy vật
biện chứng và Duy vật sử quan. Có những tác giả tôi quen, có những tác
giả tôi
chưa từng được biết. TTT cho tôi hay rằng một số lớn sách nghiên cứu về
CS là
của người bạn chung của chúng tôi, anh Tô Đáng (cùng dạy Trường Sơn với
TTT sau
khi giải ngũ và cùng khoá 2 Thủ Đức với tôi), cho mượn.
Tôi không nhớ rõ TTT đi khóa 14 hay 15
Thủ Đức, chỉ biết khi
ra trường anh được bổ nhiệm đi giữ kho xăng ở một trung đoàn địa
phương. Đầu
thập niên 60, thời Đệ nhất Cộng hòa, tổng thống Ngô đình Diệm và bào đệ
Ngô
Đình Nhu muốn "chính trị hóa" Quân đội (QĐ), nhằm biến QĐ không đơn
thuần là một QĐ nhà nghề mà là một đoàn quân chiến đấu vì lý tưởng.
Ngành Chiến
tranh Tâm lý sẽ được nâng lên thành Tổng cục Chiến tranh Chính trị theo
mô thức
của quân đội Trung Hoa Dân Quốc bên Đài Loan.
Sau khi mất cả một lục địa Trung Hoa,
Tưởng Tổng Tài cùng
với Quốc Dân Đảng của ông mới tái thiết Đài Loan thành một "quốc gia"
mạnh mẽ, cả về kinh tế cũng như quân sự. Miền Nam dưới trào Tổng thống
Ngô Đình
Diệm muốn đi theo đường lối ấy. Năm 1961, một phái đoàn Chiến tranh
Chính trị
Trung Hoa Dân Quốc dưới quyền điều động của trung tướng Vương Thăng,
tổng cục
phó TC/ CTCT Đài Loan, sang miền Nam sửa soạn để dạy một khóa căn bản
CTCT cho
sĩ quan VNCH, đồng thời phổ biến kinh nghiệm cũng như tài liệu giảng
huấn cho
Trung tâm CTTL tọa lạc tại đường Lê Thánh Tôn, gần nhà thương Grall khu
Đồn
Đất.
Ngày ấy kẻ viết bài này phụ trách về
huấn luyện tại Trung
tâm CTTL. Trong tương lai, trung tâm này sẽ dược cải tổ thành trường
Đại học
CTCT. Tài liệu giảng huấn của phái đoàn Vương Thăng tuy đầy đủ nhưng
tình hình
Đài Loan khác, tình hình miền Nam khác nên không thể áp dụng "nguyên
si" vào quân đội miền Nam. Phải có những điều chỉnh, canh cải cho hợp
lý.
Đặc biệt chú ý đến đề tài Ấp chiến lược, tuyên và phản tuyên truyền,
phê phán
chủ nghĩa CS vv... Ông cố vấn Ngô Đình Nhu, BS Trần Kim Tuyến thường
đích thân
duyệt xét những tài liệu này. Để thanh thỏa vấn đề giảng viên, trung
tâm được
ưu tiên nhận về trường những sĩ quan phù hợp trong việc giảng dạy. Vì
đề tài
phê phán chủ nghĩa CS, chúng tôi xin thuyên chuyển thiếu úy Dzư văn Tâm
(tên
thật của TTT) về trung tâm huấn luyện. Những tài liệu ngày nào trên căn
gác nhỏ
ngõ Đỗ Thành Nhơn được đem ra sử dụng, đồng thời TTT giới thiệu với
chúng tôi
một tác giả lớn, rất lớn, là Raymond Aron.
R. Aron được coi như nhà xã hội học đáng ghi nhớ nhất của
thế kỷ 20; ông là đồng môn với J.P. Sartre ở trường lớn Normale
Supérieure
nhưng hai ông mỗi người đi một ngả. Trong khi giới trí thức Pháp thời
kỳ đó ủng
hộ chủ nghĩa cộng sản, nghiêng về phía tả, như nhà thủ lĩnh hiện sinh
[Sartre.
NQT], một mình R. Aron bênh vực cho phái hữu và nền dân chủ pháp trị.
Ngay từ
đầu thập niên 60 (thế kỷ trước), R. Aron đã tiên đoán là xã hội cộng
sản một
ngày không xa sẽ phải xóa đi, làm lại từ đầu (Gauche, année
zéro, những bài giảng của ông gộp lại từ giảng đường
Sorbonne). Xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Liên Xô, Đông Âu cuối thập niên
80
nhưng R. Aron đã tiên đoán điều này gần 30 năm trước. Ngoài
Gauche, année zéro, TTT còn đưa vào bài giảng một số luận điểm
cũng của R. Aron trong cuốn biên khảo nổi tiếng “L'opium des
intellectuels”
(thuốc phiện của giới trí thức) trong vấn đề "có phải thiên tả mới là
tiến
bộ". Về đề tài khá gai góc'phê phán chủ nghĩa CS', khối Huấn luyện
chúng
tôi có nhà văn TTT nhận định về phương diện lý thuyết; về phương diện
thực tế
khi áp dụng "chủ nghĩa duy nhất đúng', chính khách Nguyễn văn Chức
(thượng
nghị sĩ sau này) bằng những luận cứ vừa sắc bén vừa phúng thích đã nêu
rõ sự
xuống giá của động vật người trong xã hội CS.
TTT ngoài việc chuyên cần đọc sách còn
là một người chịu khó
tìm tòi. Thư viện của nhà trường hay nhà sách Xuân Thu
(Portail cũ) có
cuốn nào mới, đáng đọc là TTT biết liền. Anh cũng là người đầu tiên
giới thiệu
Kim Dung, nhà viết tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình đặc dị của Trung Hoa với
anh em
chúng tôi. Theo TTT, Kim Dung là người thực hiện được cuộc hôn phối tốt
đẹp
giữa cái bát ngát của truyện Tàu với kỹ thuật mới của Tây phương. Từ
TTT chúng
tôi bắt đầu đọc Hồng Hoa Hội, Thư kiếm Ân
cừu lục, Bích huyết kiếm và đầu thập niên 60, Ỷ Thiên Đồ Long ký.
Như đã thưa ở trên, Trung Tâm chúng
tôi ở đầu đường (?) Lê
Thánh Tôn gần bệnh viện Grall. Có những buổi trưa, bạn chúng tôi, Mai
Thảo, từ
nhà hàng Pagode đi bộ vào trường
chúng tôi không bao xa, ở lại ăn trưa. Ăn xong chúng tôi bàn về việc
hai vợ
chồng Trương Thúy Sơn và Hân Tố Tố từ Băng Hỏa Đảo về trung thổ số phận
thế
nào? Câu chuyện đang say sưa thì ông LS Nguyễn Văn Chức mới từ bàn bên
xía
ngang vô: "Dẫu sao chúng ta cũng là những người đọc sách. Tại sao chúng
ta
lại phí thì giờ về những chuyện kiếm hiệp ba xu như thế?". Tôi mới thưa
lại cùng ông Chức: "Mới đầu tôi cũng nghĩ như ông. Nhưng “vào việc rồi
mới
biết tay nghề của thợ” (À l'oeuvre on
connait l'artisan). Ông đã đọc Les
trois mousquetaires [Ba người ngự lâm pháo thủ. NQT] tôi xin cam
đoan với
ông rằng Ỷ Thiên Đồ Long sẽ hạ Les trois
Mousquetaires 6-0 là ít". Để chứng minh, tôi đưa 1 tập truyện Kim
Dung
cho nhà luật sư. Trưa hôm sau, nhà luật sư mặt mũi chõm lơ nói rằng:
"Ly
kỳ không chịu được ông ạ, đọc suốt đêm. Xin cho đọc tiếp".
Nhà đọc sách chuyên sâu TTT ở bàn bên
nhìn tôi mà mỉm
cười...
Phan Lạc Phúc
(Tiếp theo)
Năm 1965 vì thời cuộc, Hội đồng Tướng
lãnh nhận nhiệm vụ
trước quốc dân. Ủy ban Hành pháp Trung ương được ủy nhiệm lập chính
phủ. Theo
cơ chế mới, chính phủ quân nhân cần phải có một cơ quan ngôn luận để
nói lên
"tiếng nói" của mình. Vì có đi học khóa báo chí ở Mỹ nên tôi được đề
cử phụ trách biên tập tờ TIỀN TUYẾN (TT), nhật báo chính thức của quân
đội.
Tôi dời TTHL/ CTTL ra nhận nhiệm vụ
mới. Chủ nhiệm đầu tiên
của TT là thiếu tá Lê Đình Thạch bút hiệu Thạch Lê. Năm sau, chủ nhiệm
là trung
tá Phạm Xuân Ninh tức nhà thơ Hà Thượng Nhân, chúng tôi thường gọi đùa
là
"Hà chưởng môn". Thời kỳ này, TT từ 4 trang lên 8 trang, tòa soạn
chúng tôi được tăng cường. Trung úy Dzư Văn Tâm gia nhập TT; công việc
hằng
ngày của anh là dịch tin AFP (tiếng Pháp) và sau đó cùng tôi bàn bạc
làm tin
"vedette " [giống như “hot” bây giờ. NQT] trong ngày. Tuy TTT là thi
sĩ "mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây" nhưng anh có khá nhiều
"étincelle" (sự phát sáng) về thời cuộc. Nó giúp cho tin chính 8 cột
thêm phần hấp dẫn.
Hằng tuần TTT phụ trách trang kinh tế
- chính trị (KT-CT) và
tham gia trang văn nghệ (VN). Trang KT-CT của TT ngày ấy tương đối khởi
sắc vì
có khá nhiều bạn cũ của TTT ở trường Luật tham gia như Phạm Văn Thuyết,
Nguyễn
Văn Phong. Có nhiều bài của nhân viên cơ hữu trong tòa soạn nói về
"đồng
đô la xanh, đồng đô la đỏ", về "sự thử nghiệm võ khí mới của Mỹ trên
chiến trường Đông Dương xét về phương diện kinh tế" v.v... rất được bạn
đọc theo dõi. Trên trang VN có nhiều bài phê bình, nhận định giá trị do
TTT và
bạn hữu viết. Kiến văn và sự làm việc tích cực của TTT đã làm cho tòa
soạn
"sáng lên" khá nhiều.
Ngày ấy ngoài việc phụ trách biên tập
cho tờ báo, tôi còn có
bổn phận viết TẠP GHI (TG) hằng ngày. Khi làm trang nhất xong, trong
tiếng rì
rầm của máy in tôi ngồi kiểm bài trang trong và viết TG. Trong khi đó
TTT ngồi
viết “feuilleton” cho chuyện dài đăng từng kỳ trên báo (tôi không còn
nhớ rõ đó
là Cát lầy hay Dọc đường). Có tác giả
viết sẵn từ ở nhà, có tác giả đến tòa soạn
mới viết. Thảo Trường, Lam Giang đến là đưa bài ngay. Mai Thảo, Nguyễn
đình
Toàn đến tòa soạn mới viết. TTT là người viết kỹ nhất, chậm nhất, bản
nháp của
anh dập xóa, sửa chữa nhiều lần. Anh không chỉ là một văn nghệ sĩ, anh
là một
nhà trí thức khó khăn với bản thân mình trước hết.
Trong "nghề" viết TG, tôi rất cần
thông tin. Một
giảng viên ở khóa học bên Mỹ nói về việc viết column "Information,
information, information". Tôi nhiều khi bí rì. Ở tòa soạn, tôi có 3
nguồn
tiếp tế. Nếu cần hỏi về Đông Phương hay Sử, Địa có "ông đồ bùn chữ như
chấu chát" Lam Giang; cần hỏi về triết sử hay văn học Tây phương có bạn
TTT người đọc sách chuyên sâu và kỹ lưỡng; cần hỏi về thơ, văn tiền
chiến có Hà
"chưởng môn" hiểu rộng, biết nhiều. Đúng là trường hợp "học thầy
không tầy học bạn".
Có thể nói từ ngày
TTT vô quân đội (1961 hay 1962), trừ một
thời gian ngắn giải ngũ và sau này có gần hai năm anh làm việc trên
trường Võ
bị Quốc gia Đà Lạt, lúc nào tôi cũng làm việc gần gũi TTT. Đặc biệt
thời kỳ Tết
Mậu Thân (1968), anh bị động viên trở lại và hội nhập với anh em TT
chúng tôi.
Ngày ấy "nhà banh" là "trăm phần trăm" ở trong trại 24/24.
Chúng tôi là "ký giả" nhưng cũng phải cầm súng, tối đến đi phục kích,
kiểm soát hay canh gác. Trong bài thơ Đường luật TTT có nhã ý tặng tôi
sau này
(dưới bút hiệu Trần Kha) có 2 câu kết "Mong ngày gặp gỡ nằm chung
chiếu,
Đấu láo qua đêm như dạo nào" là nói đến thời kỳ này.
TTT và tôi thường đem
chăn, chiếu tối tối sang đài QĐ ngủ
nhờ vì nơi ấy được bảo vệ chống pháo kích kỹ nhất khiến cho đài QĐ
không bao
giờ "mất tiếng". Chúng tôi kể cho nhau nghe nhiều chuyện. Tôi kể bạn
nghe cậu học trò nhà quê là tôi ra tỉnh ngẩn ngơ như thế nào, các ông
thầy học
của tôi ra sao? Bạn kể tôi nghe thời niên thiếu của bạn, ông thân của
bạn làm
nghề dạy học kiêm viết báo La Volonté
Indochinoise. Nhưng ông thân của bạn mất sớm năm ông 29 tuổi trong
một tai
nạn trên hồ Trúc Bạch khi bạn ta mới 5 tuổi, người em ruột của bạn Dzư
văn Chất
mới 2 tuổi rưỡi. Bà thân của bạn còn trẻ 24 tuổi. Bạn không kể tiếp
nhưng tôi
được biết rằng TTT là một người "thân lập thân" rất sớm. "Anh có
thể tưởng tượng được không, năm tôi 13 tuổi, tôi đã bị bắt nhốt vào
khám
Catinat như một người tù chính trị. Tôi ở với bà cô làm nghề đan áo len
thuê.
Tôi có bổn phận đi giao áo, nhận len và tiền. Một hôm tới giao hàng tôi
bị 'mã
tà' bắt giữ vì nhà ấy bị nghi là trạm giao liên của CS. Tôi ăn cơm tù,
bị giam
rất sớm. Nhưng chừng 10 hôm sau tôi được thả ra, quay trở về Hà Nội".
Tôi, kẻ viết bài này,
có may mắn quen biết cả người em, ông
dự thẩm Dzư văn Chất (DVC) của quân đoàn 3. DVC cho hay là TTT về Hà
Nội học
Văn Lang, thầy Ngô Duy Cầu (vị giáo sư uống thuốc độc tự tử ít ngày sau
khi
Cộng sản vào Sài Gòn). Năm 1951 đi thi tú tài 1, TTT phải xin miễn tuổi
vì lúc đó
mới 15 tuổi rưỡi. Năm sau 1952, TTT xong tú tài toàn phần và bắt đầu đi
dạy.
Trong 'Bếp Lửa', tác giả kể "tôi" tên Tâm đi dạy tại Bắc Ninh có thể
là chuyện thật.
Những khi tôi đến
chơi nhà ở sau tòa bố Gia Định, ông em DVC
dù rằng chỉ xa nhau có vài tuổi vẫn thưa gửi với ông anh rất lễ phép.
Mấy ông
quân cảnh thường nói rằng ông tòa DVC rất nghiêm. Nhưng tôi thấy ông
tòa thường
không dám ngồi ngang với ông anh, khẽ kéo ghế ngồi né ra sau một chút.
Ít khi
anh em "mồ côi" lại thủ lễ với nhau như thế.
Thời thập niên 50
(thế kỷ trước), nếu tôi nhớ không nhầm,
sinh viên đậu tú tài có thể học bất cứ phân khoa nào ưa thích. Không
ngần ngại
TTT đã ghi tên học Luật, một khoa học nhân văn và đi theo con đường của
thân
sinh ngày xưa: đi dạy học. Ông không muốn theo học nghành khoa học thực
nghiệm
trở nên bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ có một tương lai rạng rỡ. TTT đã chọn
lựa làm
một trí thức có thể nghèo về vật chất nhưng giàu có về phương diện tâm
hồn...
(còn tiếp)