*
 






Sài-gòn phóng solex như bay... 

Thi sĩ Joseph Brodsky, đứa con của St. Petersburg, khi được hỏi, ông cảm thấy thế nào, khi biết tin thành phố trở lại với cái tên lịch sử của nó; ông trả lời: tôi hạnh phúc quá chừng, quá đỗi! Tôi nói điều này với tất cả hân hoan, và không cần một chút dè dặt, mặc dù hoàn cảnh trớ trêu, có một thành phố St. Petersburg ở trong một Leningrad Region... Nhưng đừng nghĩ tới chúng ta, mà hãy nghĩ tới những cư dân hiện thời, tới những người sẽ sinh ra tại đó. Họ sống trong một thành phố mang tên thánh, như vậy chẳng hơn là với một cái tên của quỉ. (Better they live in a city that bears the name of a saint than a devil.)

Khi được tin nhà thơ Nguyên Sa mất, tôi bỗng nhớ đến câu thơ trên: Sài-gòn phóng solex như bay. Nhớ đến J. Brodsky, và câu thơ của ông: Xứ sở làm chi, phần mộ làm gì, Ta sẽ tới đảo kia để chết. (Neither country nor churchyard will I choose Iõll come to Vasilevsky Island to die). 

Nhớ đến thành phố mất tên. Và tôi tự nhủ, câu thơ, và tác giả của nó, đã nhập vào thiên tài của nơi chốn. Đã vĩnh viễn thuộc về Sài-gòn rồi. Ở đây, chúng ta hãy vượt lên mọi oan khiên nhất thời, hoặc cuộc đối đầu quốc- cộng, và để ý đến một điều: cái tên gọi Sài-gòn, theo như người viết hiểu, không phải là một từ tiếng Việt, mà là gốc Miên, hoặc Chàm. Tổ tiên của chúng ta, những người mở nước, đã biết kính trọng điều gọi là thiên tài của nơi chốn, genius loci, và đã không đặt tên lại cho một vùng đất đã cưu mang họ, bằng một cái tên mang sẵn từ nhà, từ một vùng đất họ đã bắt buộc rời bỏ. Những Los Angeles, Mississauga, Canada... những địa danh ở Bắc Mỹ là một an ủi cho những người Âu châu, so với tất cả những tội ác đối với thổ dân da đỏ. 

Tôi thích câu thơ trên, vì Sài-gòn (lẽ dĩ nhiên). Và, vì còn là một Sài-gòn của riêng tôi. Sài-gòn của tôi chẳng bao giờ phóng solex như bay, nhưng mỗi lần nhớ đến, câu thơ của Nguyên Sa lại mới nguyên trong tôi, như một vài kỷ niệm còn sót lại, về cô bạn. Về Nguyên Sa, còn một câu thơ nữa, mà tôi vẫn rì rầm hát theo, cùng với nó, và mỗi lần như vậy, lại tự nhủ, nếu có dịp gặp ông, tôi sẽ hỏi, đâu là nguyên bản của nó. Câu thơ được phổ nhạc: Trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu. Câu thơ nguyên bản, như sau này tôi được biết:... bởi vì đâu. Nhưng tôi cứ rì rầm như vầy: Trời chợt mưa, chợt nắng, chợt vì đâu. Và tôi cứ cố tình thích chữ chợt sau cùng. Bởi vì, cứ khơi khơi, trời chợt mưa, chợt nắng, cô bạn chợt phóng solex vào đời mình: Chợt vì đâu, solex mãi trong tôi... Hoặc: Chợt vì đâu xô lệch mãi đời tôi... Oan khiên nhất thời: so với chiều dài lịch sử, cuộc chiến quả thật chỉ là oan khiên nhất thời. Giữa thời gian và những ký hiệu là những con chữ, hay như ở đây, một câu thơ, lại là một vấn đề lớn lao khác nữa: Khi thành phố mà tôi vinh danh, đã lụi tàn, mai một, khi những con người bài thơ tôi ca ngợi, đã chìm vào quên lãng, những con chữ sẽ vẫn còn hoài (Pindar)... Câu thơ cứ còn mãi, dù Sài-gòn không còn phóng solex như bay.... Sài-gòn không còn phóng solex như bay, thi sĩ càng biết rõ điều này hơn chúng ta. Hãy đọc thơ ông, thay cho một lời tưởng niệm: Em gói câu thơ trong áo bay, Ba phần gió thổi, một phần mây, Ngày sau hai đứa mình xa cách, Anh vẫn được nhìn mây trắng bay. Thi sĩ biết rất rõ, sẽ có một ngày, người mà câu thơ ca tụng, sẽ cách xa, nhưng không hề chi, câu thơ sẽ vẫn còn mãi: Anh vẫn được nhìn mây trắng bay. 

Không phải chỉ em, mà luôn cả anh - nhà thơ, sẽ cách xa:  Nghệ sĩ phải làm cho hậu thế tin rằng, anh ta đã không sống, Flaubert nói. (L'artiste doit faire croire à la postérité qu'il n'a pas vécu). Maupassant ngăn cấm chuyện chân dung ông có trong tuyển tập những nhà văn nổi tiếng: Đời riêng của một người, và bộ mặt của ông ta không phải là để chường ra cho thiên hạ thấy. "Tôi ghét chuyện dí mũi vào đời riêng của mấy ông nhà văn lớn, và chẳng có một cuốn tiểu sử nào giọi chiếu được một mẩu đời tư của tôi," Nabokov nói. Italo Calvino giải thích thêm: Ngu gì mà nói cho bất cứ một ai, dù chỉ một lời, về đời tư của mình! Faulkner mong muốn, chỉ là một người bị huỷ bỏ (annulé), được lịch sử gạch đi (supprimé par l'histoire), chẳng để lại bất cứ một vết tích, ngoại trừ những cuốn sách đã được in. (Milan Kundera khi nhắc lại, đã gạch dưới hai chữ sách, in). Theo một ẩn dụ nổi tiếng, nhà văn phá huỷ căn nhà riêng của ông, để, với những viên gạch lấy từ đó ra, xây dựng một căn nhà khác: cuốn tiểu thuyết của ông ta. Khi mà Kafka được người đời chú ý đến, nhiều hơn là (nhân vật) Joseph K., tiến trình hậu - cái chết (mort posthume), của nhà văn bắt đầu.

Solomon Volkov, tác giả cuốn Chuyện trò với J. Brodsky, có kể lại: một lần ông hỏi nhà thơ, về một lời chỉ trích ông, của một ký giả lưu vong. Ông này đã buộc tội nhà thơ leo lên đỉnh vinh quang, bằng cách đạp lên ngôn ngữ Nga (over the steps of the Russian language). J. Brodsky mặt đỏ bừng, tính xổ nho, nhưng đột nhiên ông bật cười la lên: Thú quá, Trời ơi! Làm gì có chuyện nào đẹp hơn, phải không? (Lord! What could be better, right?).

Trong quá khứ, đã có lần, người viết gọi ông, nhà thơ Nguyên Sa, là một nhà văn dễ dãi, và sung sướng. Bây giờ chỉ xin đổi lại: Nguyên Sa là một con người dễ dãi, và hạnh phúc.

Xin vĩnh biệt nhà thơ. 

NQT