logo

Thiếu Nhi

 

Can đảm 

Jacques Duquesne

Hạnh Phúc Trong 36 Đức Hạnh – Lan Nguyễn dịch 

Can đảm luôn luôn được ca tụng và nó được ca tụng khắp mọi nơi. Nếu có một đức tính mà không ai có thể bàn cãi được thì đó là đức tính can đảm. Tuy nhiên can đảm chỉ là một dụng cụ, một phương tiện. Người ta có thể tỏ ra kiên cường, dũng cảm để làm điều xấu cũng như điều tốt. Và can đảm thái quá cũng có thể đưa đến điên cuồng thái quá. 

Triết gia đức Kant đã cho thấy có nhiều mức độ, nhiều loại thang bậc giá trị can đảm: “Người nào không biết sợ là người dũng cảm; người nào khi suy nghĩ đến hiểm nguy mà không yếu lòng là người dũng tâm; người nào vẫn duy trì lòng dũng cảm giữa chốn nguy hiểm là người can đảm. Người thiếu suy nghĩ liều mình trong hiểm nguy mà không biết là người liều lĩnh. Người biết nguy hiểm mà vẫn dám làm là người gan dạ. Người liều mình trước hiểm nguy lớn lao biết là không thể nào đạt tới là người liều lĩnh ngông cuồng.” 

Vì sao lòng can đảm được nêu lên như thế? Theo tôi nó có hai lý do. 

Trước hết vì người can đảm chấp nhận một hiểm nguy, một loại hy sinh bản thân mình cho một lý do, một xứ sở hay cho người khác. 

Như thế người can đảm là người có lòng vị tha? Điều này cần phải phân biệt. Hèn là ích kỷ, luôn luôn là như vậy. Vậy là chắc rồi. Nhưng không hẳn thế: người can đảm đôi khi cũng có thể là người ích kỷ: trong một vài trường hợp tên trộm có thể tỏ ra rất can đảm, hắn vì lợi ích riêng mà hành động.

 Thứ nhì vì lòng can đảm có một truyền thống đấu tranh, chiến đấu cho nhân loại. Từ thuở tạo thiên lập địa đã có những câu chuyện hoang đường, huyền thoại, cổ tích ca tụng lòng can đảm của những chiến binh. Cứ thử mở tự điển ra để tìm chữ “anh hùng ca” thì bạn sẽ thấy định nghĩa của từ này là: “những chuyện anh hùng phiêu lưu.” Người ta định nghĩa “Chủ nghĩa anh hùng”: “Can đảm cao hơn mức bình thường.” Và ví dụ đầu tiên được trưng dẫn là bản văn Iliade của Homère. Iliade kể câu chuyện cuộc chiến tranh. Cho đến lúc nào con người còn chiến đấu thì người ta còn ca tụng lòng can đảm. Nhưng đôi khi người ta quên các hình thức can đảm khác: thợ hầm mỏ dùng sức lực để làm việc dưới hầm mỏ; các phi công chuyên bay thử các loại máy bay mới; các bà mẹ nuôi nấng đàn con đông đúc; các học sinh trẻ quyết tâm học hành để mở rộng tầm hiểu biết. Và còn rất nhiều hình thức can đảm khác.

 Có phải vì quá ca tụng với những từ ngữ trịnh trọng mà người ta coi thường các chiến binh không? Chắc chắn là không.

 Tôi luôn luôn thán phục các chiến binh đổ bộ lên bãi biển vùng Normandie ở Pháp dưới làn bom đạn của quân Đức ngày 06-06-1944. Hoặc những người chiến đấu đến chết trong lò thiêu Verdun. Chẳng có gì để biện minh cho cuộc chiến ngu xuẩn, điên cuồng này sao? Có phải đó là cuộc tự tử của Châu Âu? Chắc chắn. Nhưng họ là những chiến binh can đảm, những chiến binh của Thế Chiến Thứ Nhất 1914-1918. Ít nhất đa số chiến binh đều là những người can đảm. Những chiến binh ở Verdun chẳng hạn.

 Nhà sử học Pierre Miquel kể ra nhiều ví dụ. Đây là một trong những ví dụ. Sáng 10-03-1916, quân Đức tái tấn công. Trong số các quân đoàn bảo vệ tiền đồn Verdun ngày hôm đó có quân đoàn số 9 của bộ binh người Alger. Pierre Miquel kể: “Cuộc dội bom vẫn tiếp tục. Phân đoàn Albobois đến từ Alger bị tiêu hủy hoàn toàn vì một quả bom. Viên đại đội trưởng bị thương từ chối di tản, ông nói với người trung sĩ muốn đến cứu ông: “Cầm cái súng liên thanh này, bây giờ nó quý hơn mạng sống của tôi.”

 Đó chính là hy sinh bản thân mình.

 Phải thán phục họ. Cũng như phải thán phục lòng can đảm của binh lính thuộc liên đoàn 409 chiến đấu trong trận chiến này. Pierre Miquel cho hay “những trường hợp điên cuồng” xảy ra rất thường xuyên. Nhưng ông nói thêm: “Các binh lính của đại đội trưởng Groscolas hoàn toàn nghe lời ông, trong trận chiến gần nông trại Dicourt, ông nói: “Các bạn có biết là các bạn được hy sinh không? Chúng ta thà chết ở chiến trường nhưng không được tháo lui. Chúng ta phải cố gắng bán xương máu mình với giá cao nhất.”

 Kính cẩn thán phục. Nhưng chúng ta cần phải hiểu thêm bởi vì nó không đơn giản. Pierre Miquel giải thích thêm: “Ở binh đoàn 409, khi đội quân Đức cuối cùng trong ngày bị đẩy lui, người ta đếm được hơn một ngàn người chết trong đó có hai mươi sáu người ở cấp sĩ quan. Những người sống sót điên lên vì chiến thắng đồng ca bài “la Marseillaise.” Từng hàng xác nằm sắp dài, tấn công, phản tấn công và tụ điểm phòng vệ khơi dậy nơi lòng người một loại say sưa trong những giây phút hứng khởi đi trước hoặc đi sau những giây phút tuyệt vọng, thinh lặng và lo âu.”

 Chúng ta hãy ngừng lại ở những từ ngữ say sưa, tuyệt vọng và lo âu. Còn biết bao từ ngữ khác hợp thành một bó hoa mà người ta gọi là can đảm.

 
Cũng trong cùng quyển sách này, ở một đoạn khác của cùng trận chiến. Quân Đức lại tấn công rừng Caures: “Đồng đội bị thất lạc trong hố bom, nghe tiếng súng liên thanh của quân đội Pháp, anh cầm lấy súng lên và bắn vào quân Đức. Phản xạ của tuyệt vọng thường thường là phản xạ cá nhân. Sau những thử thách phải hứng chịu là lòng hận thù. Con người lúc nào cũng có ước muốn chứng tỏ cho thấy nó không dễ gì buông mình để đi đến tận cùng cuộc đời, dù kẻ thù có dùng phương tiện khủng khiếp để hủy hoại hàng trăm ngàn người. Tràn súng liên thanh của người lính ở chân núi Caures cho thấy sự phản kháng: anh tức tối vì bị bỏ rơi một mình ở trong cái địa ngục này.”

 Chống đối, kiêu ngạo, hận thù, cô đơn. Một trong những anh hùng ở Verdun là ông Jacques Péricard đã đặt ra lời cầu nguyện này: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin mở rộng quả tim con để con có thể chứa thêm hận thù.” Chúa Giêsu đã dạy: “Hãy yêu kẻ thù”... Thật không đơn giản chút nào. Có thể chiến tranh làm con người bất nhân. Chắc chắn là như thế. Tiểu thuyết gia người Đức, ông Erich Maria Remarque, dĩ nhiên ông là người đứng bên phía kẻ thù, phần ông, ông đã viết: “Đó là bản năng thú vật đã khơi dậy trong chúng tôi, đã hướng dẫn chúng tôi và bảo vệ chúng tôi.”

 Trong quyển tiểu thuyết Về Lòng Can Đảm, tiểu thuyết gia người Mỹ ông Tim O’Brien đã mô tả trạng thái tinh thần của chiến binh, tình cảm của những người lính trẻ bị nướng vào cuộc tranh chấp đẫm máu, nham hiểm, phi nhân, cuộc chiến tranh Việt Nam trong những năm bảy mươi:

 Họ cùng mang chung cái bí mật của một hèn nhát khó che đậy, bản năng thúc đẩy bỏ trốn, chết trân tại chỗ hoặc tìm chỗ ẩn núp, một cách nào đó, đó là gánh nặng lớn nhất, bởi vì người ta không thể đặt gánh nặng này xuống đất, bởi vì gánh nặng này đòi hỏi cần có một thế đứng và thế quân bình tuyệt hảo. Họ mang danh dự của họ. Họ mang cái sợ lớn nhất của người lính, sợ bị đỏ mặt. Những người lính này đã giết, đã chết bởi vì họ cảm thấy khó chịu nếu họ không làm như vậy. Đó là cảm giác đầu tiên dẫn họ đến giết chóc, chẳng có gì là cao thượng, chẳng mơ chiến thắng hoặc danh dự, đơn giản là để tránh xấu hổ và mất danh dự. Họ bò trong các đường hầm, vươn tới đáng trước, tiến vào lửa đạn. Mỗi buổi sáng, dù không ai biết, họ vẫn đi. Họ cự lại. Họ tiếp tục khiêng vác. Họ không đặt mình vào một vị thế nào khác, chẳng hạn đơn giản nhắm mắt và té xuống. Làm như thế thật sự quá dễ. Nhăn nhó, té xuống đất, để bắp thịt cứng đơ ra, không nói, không cử động cho đến khi đồng bạn ném mình lên chiếc trực thăng đang gầm gừ bốc bạn về thế giới văn minh. Chỉ cần té xuống nhưng chẳng bao giờ có ai té xuống. Ngắn gọn đó không phải là lòng can đảm; mục đích của họ không phải là làm anh hùng. Đơn giản là họ quá sợ bị cho là hèn.

 Chung chung họ mang tất cả tâm trạng này vào nội tâm họ, họ giữ bộ mặt bên ngoài bình thản. Họ cười bệnh xá. Họ phê bình nghiêm khắc các vị tự bắn vào ngón tay, ngón chân. Họ nói  đó là những người mềm yếu. Những con gà chết. Họ nói với giọng điệu ác độc chế giễu, nghi nghi có một chút ham muốn và sợ hãi trong đó.

 Can đảm không phải là không sợ. Lòng can đảm thật sự bao gồm cả cái sợ nhưng can đảm chế ngự được sợ và vượt lên sợ. Đó là trường hợp những người Kháng Cự trong thời quân Đức chiếm đóng. Đương nhiên đó là những người tự nguyện. Những người đảm nhận mọi hiểm nguy, những người quên mình để giúp người khác, họ không chờ phần thưởng, không chờ huân chương. Thỉnh thoảng lại xảy ra chuyện ngược lại. Bernard Clavel nhắc lại kỷ niệm của người chú, sĩ quan trong lliên đoàn “mũ kết trắng” trong thời Thế Chiến Thứ Nhất, ông là phụ tá cho ông thị trưởng:

 Một ngày nọ, trong thời gian đen tối nhất của cuộc Chiếm Đóng, tôi đến nhà ông trong lúc ông vắng mặt. Một người đàn bà lạ đến nhà, dì tôi cho bà vài thẻ căn cước và một số tem phiếu thực phẩm.

 Đó là giai đoạn chúng tôi đói thật sự. Bà này ra đi, tôi nói với dì: “Dì ơi, ít nhất ở nhà dì còn có cái để ăn.” Vì dì tôi ra vẻ như không hiểu, tôi nhắc đến các tem phiếu. Tôi vẫn còn nhớ như in câu trả lời của dì: “Con ơi, ở đây con có phần của con. nếu chú con chấp nhận làm phụ tá cho ông thị trưởng mà chú không đồng ý về chính kiến với ông là chỉ duy nhất một chuyện, chú có thể lấy được những tờ giấy để cung cấp cho người Do Thái, cho những người kháng cự, cho họ tem phiếu. Đó là bổn phận của chú, nếu chúng ta chỉ lấy của họ một mẫu bánh mì thì đó là chúng ta ăn cắp của họ.”

 Trong suốt thời gian quân Đức chiếm đóng, chú tôi sống trong cảnh bụng đói và mỗi ngày chú có thể bị đẩy vào trại tập trung vì tội làm giấy giả, cho người khác tem phiếu. Chú chẳng bao giờ lấy bớt để cho chú, cho vợ chú hay cho tôi. Tuy nhiên chú đau khổ khi thấy tôi đói, thường thường chú nhường phần của chú cho tôi.

 Ngày quân Đức rời thành phố, ông đến tòa thị chính như thường lệ. Những người giải phóng đầu tiên đến bắt ông, nhục mạ ông và đe dọa giết ông. Ông không nói một lời. Một trong các cấp trên của ông đến xin lỗi và thả ông. Nhờ qua liên hệ với ông này mà chú tôi đã làm việc trong suốt thời gian chiến tranh. Ngày hôm sau, họ đến mời ông ra làm thị trưởng. Ông trả lời một cách đáng kính: “Hồi đó tôi đã làm việc dù chẳng có ai khác đến đó làm việc. Nay tôi đã già, đã mệt, xin để tôi chết trong bình an.”

 Như thế đó, tôi đã nêu lên lòng can đảm của các chiến sĩ với cả ánh sáng và bóng tối của nó. Nhưng làm sao lại không nhắc ở đây lời nói của cựu tổng thống Mỹ Eisenhower, người điều khiển các trận chiến của đồng minh để dẫn đến Chiến Thắng và Giải Phóng: “Nếu các dân tộc tự do không đủ khả năng đòi hỏi những người trẻ anh dũng chiến đấu chống nạn nghèo khó như họ đã chiến đấu chống nạn độc tài thì đừng nhọc công đòi họ hy sinh, bởi vì lúc đó cái tự do của chiến thắng chỉ còn là cái xác ma.”

 Rõ ràng là ông nói chẳng ai nghe.

 Bây giờ tôi muốn nhấn mạnh đến một hình thức can đảm khác với một trích đoạn Chú Bé Tóc Hung - Poil de Carotte. Chú bé anh hùng của tiểu thuyết gia Jules Renard, chú có cái tên này vì màu tóc hung hung đỏ của chú. Chú sống trong một gia đình mà không ai yêu thương chú:

 -           Mẹ cá với tụi con là Honorine lại quên đóng cửa chuồng gà. Bà Lepic nói.

 Đúng vậy. Nhìn qua cửa sổ là biết. Đàng cuối vườn, trong bóng đêm đen, cái khuôn cửa vuông  chuồng gà còn mở.

-           Félix, con đi đóng cửa chuồng được không? Bà Lépic nói với thằng anh cả của hai đứa em.

-           Con ở đây không phải để lo cho mấy con gà, Félix nói, đó là một chú bé có da mặt xanh nhợt, lờ đờ, nhát gan.

-           Còn con, Ernestine?

-           Con hả, con quá sợ mẹ ơi!

Anh cả Félix và chị Ernestine mặt cúi gằm xuống trả lời. Hai người chăm chú đọc sách, cùi chỏ tì trên bàn, hai cái trán gần như chạm nhau.

-           Trời ơi mẹ thiệt đoảng! Mẹ không nghỉ ra, thằng Tóc Hung đi đóng cửa chuồng gà!

Bà đặt tên này cho chú con trai út vì tóc nó hung và da mặt nám tàn nhang. Thằng Tóc Hung đang ngồi chơi dưới bàn vội đứng dậy rụt rè nói:

-           Mà mẹ, con cũng sợ.

-           Hả? Một thằng con trai lớn như con! Nói thế không sợ người ta cười. Lẹ lên con, chịu khó một chút đi!

-           Hắn mạnh như con dê ai cũng biết, chị Ernestine nói.

-           Hắn không sợ ai hết, không sợ cái gì hết. Anh Félix nói.

Những lời khen này vừa làm cho thằng Tóc Hung kiêu hãnh vừa làm cho nó xấu hổ vì thấy mình bất xứng, hắn đang chiến đấu với tính hèn nhát của mình. Để thúc đẩy nó phải đi, bà mẹ dọa đánh nó.

-           Nhưng ít nhất cũng phải thắp đèn lên. Nó nói.

Bà Lépic nhún vai, anh Félix cười khỉnh. Chị Ernestine thấy tội nghiệp cầm cây đèn cầy đi theo em tới khúc cuối hành lang.

-           Chị chờ em ở đây, cô chị nói.

Nhưng cô bỏ chạy đi nơi khác ngay lập tức vì ngón gió mạnh vừa thổi qua làm chao ngọn nến và nó phụt tắt.

 Thằng Tóc Hung chân như bị đóng đinh, đứng run cầm cập trong bóng tối. Bóng đêm đen dày đặc làm nó tưởng như nó mù. Thỉnh thoảng ngọn gió lạnh thổi tạt vào nó như tấm chăn lạnh giá muốn cuốn nó đi. Mấy con chồn, mấy con chó sói có đến vồ nó không? Theo nó suy nghĩ, tốt hơn hết là chạy ù đến chuồng gà, lao cái đầu tới đàng trước như đục thủng bóng tối. Rờ rẩm, nó tìm được cái khoen khóa, nghe tiếng động, mấy con gà kêu ầm lên. Thằng Tóc Hung hét:

-           Im đi nào, tao đây!

Nó đóng cửa lại và co giò chạy bay như chim. Khi nó vào nhà, thở hổn hển, lòng tụ hào. Về được nhà, trong ấm áp và trong ánh sáng, nó cảm thấy như vừa thay cái áo nặng trịch thấm bùn, thấm mưa bằng một chiếc áo mới nhẹ hơn. Hắn mỉm cười, đứng thẳng tự hào chờ mọi người khen và bây giờ nó thoát nạn, cố tìm trên nét mặt người thân dấu vết lo âu của họ trước đó.

 Nhưng ông anh Félix, bà chị Ernestine vẫn tiếp tục đọc sách. Bà Lépic thản nhiên nói:

-           Thằng Tóc Hung, tối nào con cũng đi đóng chuồng gà.

 Đức tính tốt không phải lúc nào cũng được đền bù. Và tác giả của bài thơ đẹp nói lên lòng can đảm trong thinh lặng, một thái độ anh hùng tinh khiết chắc chắn cũng chẳng được đền bù.

 Kể từ ngày mai,

Tôi mới buồn.

Bắt đầu ngày mai,

Chứ không phải hôm nay.

Hôm nay tôi sẽ vui

Và mỗi ngày

Dù khó khăn đến đâu

Tôi cũng sẽ lặp đi lặp lại

Bắt đầu từ ngày mai tôi mới buồn

Nhưng không phải hôm nay.

 Bài thơ này là của một cô gái do-thái vô danh làm trong trại tập trung trong thời Thế Chiến Thứ Hai.