*





















 
 


Nguyễn thị Hải Hà

Cửa đóng

Tôi không còn nhớ hôm ấy là năm nào tháng nào chỉ biết là trước năm 80 vì tháng Mười năm 1980 tôi vượt biên. Hôm ấy trời rất nóng. Tôi nằm áp mặt xuống sàn gạch mong tìm chút hơi mát. Gió từ chiếc quạt nan phe phẩy bằng tay cũng nóng hổi. Nóng liên tiếp đã mấy ngày, điện cúp, nước đá không có, cả ngõ hẻm thoi thóp sắp phát cuồng vì nóng. Chịu không nổi tôi ra ngoài sân. Nắng hầm hập lóa mắt. Hơi nóng từ nền xi măng hắt lên rát mặt.

Cây mận ở ngay ngõ vào cổng mấy năm trước trái rất sai, những chùm mận da xanh bu kín cả cành, mọng nước, năm nay héo rũ như sắp chết. Cây mận tỏa ra mùi hôi thúi. Ban đầu tôi không để ý, nhưng ông Sanh, công an khu vực, lúc đi ngang ngõ nhà tôi, nói bâng quơ:  “Mùi gì thối quá, chắc có nhà nào ăn sầu riêng.” Tôi tuy phật ý vì lời chê sầu riêng thối nhưng không trả lời.

Ông Sanh là người ngoài Bắc mới vào cai trị ngõ hẻm của tôi. Cái gì của miền Nam ông cũng chê. Tôi không hiểu được tại sao tôi thấy sầu riêng thơm mà ông Sanh, bảo là thối không chịu được. Ở nhiều nơi trên thế giới, như Thái Lan và Mã Lai, sầu riêng là loại trái ngon đắt tiền được nhiều người ưa thích đến độ người ta pha sầu riêng vào chè, kem, bánh ngọt. Trong khi có một số người mạnh miệng chê: “ăn sầu riêng giống như ăn mít ướt trong cầu tiêu.” Tôi không ưa ông Sanh từ đầu. Đi ngang ông, tôi giả vờ không nhìn thấy ông. Ông Sanh cũng không ưa tôi. Ông nói, cốt ý cho tôi nghe. Con gái miền Nam dữ dằn, quê mùa, không biết lễ phép, không biết cách ăn mặc, trang điểm. Dạo ấy con gái miền Nam thích mang giày đế dầy cồng kềnh, ông bảo phải mang giày đế nhọn như các nữ cán bộ miền Bắc mới đẹp.

Chị tôi bảo tôi: “Hễ gặp ông Sanh phải chào hỏi đàng hoàng.”

“Ông Sanh là ông nào?” Tôi giả bộ ngu.                                                                                           

“Công an khu vực mới về. Ổng nói mày vô phép gặp ổng không chào, cái mặt nghênh nghênh. Phải tránh đụng chạm với ổng để ổng đừng kiếm chuyện với nhà mình.”

Lần đầu tiên con trai lớn của chị tôi ở Mỹ gửi thùng quà về, ông Sanh đánh tiếng, “Vải ấy may quần là đẹp đấy.” Chị tôi, ngay lập tức, biếu ông xấp vải làm quà. Tôi xía vào, “tưởng cái gì của miền Nam ổng cũng chê. Cho làm gì, phí xấp vải.” Chị tôi mắng: “Mày biết gì mà nói lung tung. Phải mừng là biết ông ấy thích gì để biếu. Mất chỉ xấp vải mà được lòng ông ấy thì yên thân mà buôn bán.” Chị đang ở bán chợ trời Lê Công Kiều lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị xét nhà tịch thu đồ bán. 

Nhưng quả thật, cây mận tỏa ra mùi thối. Và mùi sầu riêng không phải lúc nào cũng dễ chịu. Có lần ai đó bỏ vỏ sầu riêng ở gốc cây mận tỏa mùi nồng nặc. Có lẽ mùi gì đậm đặc quá cũng gây khó chịu. Chẳng hạn như mùi chồn hôi, pha thật loãng vào dầu thơm nó quyến rũ ma mị, nhưng chắc chẳng ai dám ôm con chồn hôi mà ngủ. Nhưng mùi thối ở cây mận không phải mùi sầu riêng. Cũng không phải mùi cầu tiêu công cộng ở cuối đường hẻm bay đến đây.

Bé Tí đang ngồi chơi một mình trước cửa, mặt đỏ hồng, mũi lấm tấm mồ hôi, chân mày cau lại vẻ cáu kỉnh, có lẽ vì nóng. Tôi hỏi:

“Bé Tí, sao không đi ngủ trưa, hay vào trong nhà có bóng mát cho đỡ nóng.”

Bé Tí không nhìn tôi, liếc mắt vào cánh cửa đang đóng im ỉm. Chị Du thường khi không đóng cửa. À, có lẽ hôm nay là ngày hẹn của chị Du, má của Bé Tí, với ông Công chức, ba của Bé Tí.

Nhà chị Du cách nhà tôi chỉ một con đường hẻm rất hẹp, không đầy một sãi tay. Gọi là nhà, thật ra đó chỉ là một căn phòng nhỏ chia ra từ căn nhà của bà Tám bán dưa cải. Chị Du về ở xóm này trước tôi. Chị sinh ở ngoài Bắc nhưng theo gia đình vào Nam từ trước năm 54. Chị nói giọng Nam, những chữ v được đọc giống như d, nhưng dấu hỏi và dấu ngã vẫn mang giọng Bắc. Chị có một đứa con gái, tên trong giấy khai sinh là Ngọc An, nhưng mọi người vẫn hay gọi là bé Tí. Tôi tự hỏi không biết trong giấy khai sinh của bé Tí, ở mục tên cha để trống hay đề vô danh. Ở xóm này, người ta gọi bố của bé Tí là ông Công chức. Nhà ông ở đâu đó thuộc quận Nhì, kín cổng cao tường. Trước năm 75, ông là công chức cao cấp. Chị Du là người giúp việc của gia đình ông từ khi chị mới mười ba mười bốn tuổi. Không biết khi chị lớn lên chị đâm ra phải lòng ông chủ, hay ông chủ dở mòi, mỗi khi vợ vắng nhà ông đòi tòm tem, chị không biết trốn vào đâu.  Chị Du có thai, ông Công chức đưa tiền giúp chị Du thuê nhà ở riêng. Thỉnh thoảng ông đến thăm, thường vào lúc giữa trưa và không ở lâu. Khi ông đến, chị Du đóng cửa, bé Tí ra ngoài sân ngồi chơi chờ mẹ mở cửa trở lại. Nhà chị Du thường khi không đóng cửa. Chị nghèo quá không có gì phải sợ mất và chị ở nhà suốt ngày. Thêm nữa cửa nhà chị cũng là cửa dẫn lên trên gác. Phần trên gác bà Tám cho chú hai Miên thuê. Chú hai Miên bình thường không nói tiếng Miên, chỉ nói tiếng Miên khi lên đồng. Chú làm nghề coi bói và hốt thuốc trừ tà nên cửa lên gác cần phải mở. Cửa chỉ đóng khi nào ông Công chức hẹn gặp chị Dung. Ông đến và đi lặng lẽ. Tôi chưa bao giờ thấy mặt ông Công chức.

Từ khi anh Hiền về bà Tám làm cái cổng từ chỗ bồn chứa nước nối vào nhà cậu Ba, em trai của bà. Cái cổng biến mấy căn nhà gom chung lại thành một thứ gia trang nho nhỏ cách biệt với đường hẻm bên ngoài. Nhà tôi ở trước kia cũng thuê của bà Tám, sau chị tôi mua luôn. Hai căn nhà gạch trước mặt nhà tôi cũng là nhà của bà Tám. Một căn anh Hiền, con trai của bà, ở. Căn kia cho hai vợ chồng bán thịt bò thuê. Hai vợ chồng một hôm cãi nhau đánh nhau, má tôi thấy vậy vào can ngăn. Bà vợ, nổi giận ông chồng tát mình, thuận tay chụp cái đồng hồ ném ông chồng. Vừa lúc má tôi vào can, cái đồng hồ đập trúng đầu má tôi, vì ông chồng nhanh mắt né kịp. Sau đó ông chồng bỏ đi, bà vợ ở một mình ban ngày đi bán tối mới về. Ngó qua ngó lại, xóm này có thể gọi là xóm không chồng. Tất cả những người đàn bà có chồng đều trở thành không chồng vì chồng chết hay chồng bỏ. Đường hẻm này người ta đi qua đi lại suốt ngày đêm. Mười hai giờ khuya có tiếng người về xóm ruộng. Hai ba giờ sáng có tiếng người đi dọn hàng. Ban ngày cổng chỉ khép hờ tối mới khóa lại. Bà Tám nhờ có hợp đồng bán dưa cải với quân đội trước năm 75 nên rất khá giả. Nhà bà và nhà tôi cất cùng một kiểu, nhưng chiều dài nhà tôi chỉ bằng hai phần ba nhà bà Tám. Cái phần ba sau cùng của nhà bà Tám, chị Du thuê. Phòng chị Du đủ chỗ để cái giường, cái bàn nhỏ, và một hai cái ghế. Chị Du nấu ăn bằng cái bếp nhỏ ở đường hẻm giữa nhà chị và nhà tôi. Phòng chị Du có hai cửa. Một cửa mở ra đường hẻm còn cửa kia nối vào khúc giữa của nhà bà Tám.

Thằng Cu con, cháu nội bà Tám, con của chú Hai Hiếu, từ đầu đường chạy vụt vào, nói nhỏ vào tai bà Tám. Bà bảo Cu con chạy ra khóa cổng lại và đi vào nhà anh Hiền. Chập sau anh Hiền vừa đi vừa mặc áo, chân mang dép Nhật vào nhà bà Tám và gõ cửa phòng chị Du. Anh gọi nhỏ thôi, nhưng tôi đang đứng ở đường hẻm của hai nhà, cửa sổ nhà bà Tám lại mở nên tôi nghe được. Có tiếng sột soạt bên trong nhưng không ai trả lời.

“Chị Dung, mở cửa! Mở cửa. Nhanh lên!” Anh lắc mạnh cánh cửa hai ba lần. Anh nghiến răng chửi thề lầm bầm.

“ĐM! Chỉ có mặc quần áo sao mà lâu thế!”

Anh Hiền ra ngoài vào đường hẻm, chỗ bé Tí đang ngồi, gõ cửa, đẩy mạnh cánh cửa. Cửa không nhúc nhích.

Ngoài cổng, tiếng lao xao mỗi lúc một gần. Có người gõ cửa nhà cậu Ba, giọng Bắc.

“Công an thành phố kiểm tra hộ khẩu. Chủ nhà mang hộ khẩu ra đây.”

Hồi sáng, thằng cháu tôi kể là đêm qua có án mạng.

“Có người nào đó vào giết ông Công An ở khu nhà Kiến Thiết. Thế nào hôm nay cũng bị xét nhà. Họ đang lùng thủ phạm giết công an.”

“Ai bị giết vậy?” Chị tôi hỏi.

“Không biết!”

Nếu người bị giết là ông Sanh thì tôi sẽ thoát sự soi mói của ông. Nghe nói ông Sanh khắc nghiệt nhưng chú Út, người cộng sự của ông Sanh, rất được mọi người quí mến vì chú hòa nhã với tất cả mọi người.

Trước năm 75 anh Hiền ở đâu, làm gì tôi không biết. Bà Tám dưa cải, có năm người con. Chú Hai Hiếu làm giày gia công cho tiệm Gia ở đường Hoàng Diệu. Chú có năm con trai làm thợ đóng giày cho chú. Từ khi sinh thằng Út, thím Hai Hiếu bị bệnh tâm thần, chửi chồng và chửi cả xóm. Chửi ra rả suốt ngày đêm, chỉ ngừng lại để uống nước và khi kiệt sức phải đi ngủ. Chủ tiệm giày Gia vượt biên đi Mỹ nên đóng cửa tiệm. Chú Hai Hiếu dẹp tổ đóng giày vì không còn ai đặt hàng gia công. Đánh nhau với vợ mấy chập chú Hai Hiếu bỏ nhà đi mất. Đàn con gặp bà mẹ nửa điên nửa tỉnh tản lạc tự tìm cách sống. Thằng Út, chừng ba tuổi suốt ngày trần truồng nước mũi chảy đến môi. Đói bụng nó thường mang chén qua đứng trước nhà bà nội xin cơm. Kế chú Hai Hiếu là anh Hiền, rồi đến chị Bé lớn, Ngọc, và Kim Ngà. Ngọc bằng tuổi tôi thỉnh thoảng đá lông nheo với tôi. Trưa nay chỉ có anh Hiền ở nhà.

Sau năm 75 anh Hiền về nhà thường xuyên hơn nhưng không ở luôn. Anh không bị đi cải tạo vì trước năm 75 anh trốn lính. Anh là trùm du đãng ở đâu đó. Đám con của chú Hai Hiếu, trở thành đàn em trong băng đảng trộm cướp của chú Hiền. Ngọc cũng tham gia tổ chức chạy xe gắn máy giật đồng hồ dây chuyền và ví phụ nữ thường đeo lủng lẳng trên vai. Những nhân vật giang hồ dao búa như Loan Mắt Nhung hay Đại Ca Thay trong tiểu thuyết hay được đám con gái lãng mạn cỡ tuổi tôi, có thiện cảm. Anh Hiền phải là du đãng hạng bảnh, vì anh có súng. Một ngày trước ngày 30 tháng 4 năm 75, trong lúc bàn cãi sôi nổi với mấy người bạn nhậu, anh rút súng chĩa lên trời bắn đoàng đoàng mấy phát. Tôi tình cờ đi ngang cửa nhà anh nghe tiếng nổ giật nảy người vội vàng lùa mấy đứa cháu về nhà sợ đạn lạc.

Anh Hiền trạc ba mươi, da trắng. Khi anh mang dép gót chân đỏ hồng như chân con gái nhà giàu và đẹp. Tên Hiền nhưng anh có cặp mắt rất dữ. Lông mày rậm nhíu vào nhau như muốn che cặp mắt lúc nào cũng long lanh đỏ ngầu. Anh có cái vẻ nếu cần thì giết người dễ như giết gà vịt. Giết người cướp của ở đâu, mua bán cần sa ma túy ở đâu tôi không biết, nhưng chưa thấy anh gây gổ với ai ở xóm này. Nói cho đúng ai cũng tránh né anh vì sợ anh nổi cục lên anh sẽ thụi cho mấy cái. Anh Hiền có nhiều bạn gái. Anh thích những người phụ nữ có đường cong nẩy lửa. Mấy chị này thường gọi bà Tám bằng má nhưng bà không chấm ai là dâu. Có lần giận chuyện gì đó, anh Hiền dang tay thẳng cánh tát tai bạn gái của anh, mặt anh đỏ ngầu, mắt anh long sòng sọc. Nếu không có người can chắc anh sẽ lên gối và đập đầu bạn gái anh xuống đất cho thỏa cơn nóng giận. Có lần tôi đẩy chiếc xe đạp mini, thằng cháu tôi ngồi băng sau, sắp ngã mà tôi không để ý. Anh Hiền đi sau thấy vậy đỡ thằng bé ngồi thẳng lên và rầy tôi. Lúc ấy tôi rất sợ anh tát tai tôi. Trông anh giống như Hercules. Vai anh sau lớp áo sơ mi căng phồng tưởng chừng những bắp thịt vai có thể xé áo để trồi lên. Cái áo bó sát người chỗ cái eo thật nhỏ. Cái thắt lưng xệ xệ ở lưng quần, dáng đi khuỳnh khuỳnh làm anh có vẻ rất cao bồi, chỉ cần cái mũ và cái khăn quàng ở cổ người ta sẽ giống như John Wayne. Anh thích cởi nút áo trên cùng, đeo sát cổ là một cái mề đai bằng gỗ khắc dấu hiệu hòa bình, nổi bật trên cái cổ chắc nịch của anh. Anh có đôi môi giết phụ nữ.

Chị Du nghe tiếng gọi nhưng không thể mở cửa. Trong căn phòng kín mít và nóng bức chị im lặng chìu lòng ông Công chức. Phải nói thật là chị cũng nhớ ông, và thèm vòng tay của ông. Dẫu sao chị cũng là một người phụ nữ trẻ và có nhan sắc. Với đứa con và cái nghèo, chị không có hy vọng bước thêm bước nữa. Trước năm 75 ông đến thường xuyên, nhưng sau này ông càng lúc càng ít đến vì bây giờ ông không còn là công chức nữa. Nếu ông không đến chị Du không có tiền. Chị làm việc vặt trong xóm nhưng xóm này ai cũng nghèo chẳng ai có tiền thuê chị.  Chị mua bán bánh kẹo thuốc lá để kiếm thêm tiền chi tiêu nhưng vẫn không đủ. Nhiều khi bữa ăn của chị chỉ có miếng dừa khô kho tiêu. Bé Tí lớn rồi chị phải cho đi học, phải may quần áo, và mua sách vở cho con. Cũng may là xóm này ai cũng mến chị Du, không ai lời ra tiếng vào, chẳng ai trách móc chị buôn chồng người hay chế diễu bóng gió chị là gái bao. Chị hiền lành chân thật khá quê mùa đến độ không ai nghĩ là chị chủ động dụ dỗ ông Công chức để trở thành nhân tình hay vợ lẽ. Ai cũng nghĩ chị lỡ sa vào tay ông Công chức râu xanh. Nhà chị lúc nào cũng vén khéo gọn gàng, bé Tí lúc nào cũng sạch sẽ ngoan ngoãn. Ngay cả lúc còn bé nó cũng có vẻ nhẫn nhịn giống mẹ.

Đám người xét hộ khẩu nhà cậu Ba đã xong. Họ đang ở cổng gọi bà Tám. Bà Tám đi tìm chìa khóa mở cổng nhưng chìa khóa bà để ở đâu bà không nhớ. Ngoại bất nhập nhưng nội cũng bất xuất. Người ta trước sau gì cũng sẽ vào, nhưng anh Hiền không thể thoát ra. Anh như con cá nằm trong rọ. Cuối đường hẻm giữa nhà tôi và nhà chị Du là bức tường của căn nhà phía sau nhà tôi và nhà bà Tám. Hẻm cụt. Mỗi lần tôi đứng ngó cái hẻm này, tôi thường nghĩ đến lá số Tử Vi của tôi. Ở cung Thiên Di của tôi có sao Thanh Long và Thiên Mã gặp Triệt người ta bảo đó là số ngựa chạy đường cùng. Anh Hiền nhìn đường hẻm rồi nhìn tôi, ngoắc tay bảo tôi đi theo anh vào nhà tôi. Anh đi lên gác. Anh bảo tôi đóng cánh cửa dẫn ra ngoài lan can bằng gỗ.

Nếu chị Du mở cửa phòng, anh Hiền có thể lên gác nhà anh. Từ nhà anh, anh có thể đứng trên lan can nhà anh, vịn cây cột và xoạc một chân sang lan can nhà tôi. Vịn vào thanh gỗ dựng thẳng từ lan can lên mái nhà anh có thể chuyền cả người sang nhà tôi. Sau đó anh có thể vào gác nhà tôi để trốn khi người ta đến nhà anh. Sau khi người ta xét xong nhà anh và đến nhà tôi anh có thể trở ngược về gác nhà anh rồi trốn dưới gầm giường chị Dung. Tôi tính toán. Hoặc trốn ngay trên giường chị Dung lúc ông Công chức còn trên giường. Nghĩ thầm, tôi mỉm cười, giống như phim xi nê vậy.

Gác nhà anh bà Tám cho chú hai Miên mướn. Chú hai Miên có cái răng vàng sáng chói. Chú hay mặc xà rông, tóc bôi dầu dừa chải ngược. Ngày hôm đó chú hai Miên không có ở nhà. Cửa gác dẫn ra lan can đóng kín. Đó là lý do anh Hiền lên gác nhà tôi.

Thấy ông Sanh là người dẫn đầu đám người đi xét hộ khẩu, tôi hơi thất vọng. Thế thì người bị giết là ai? Nghe nói thủ phạm đã mở cửa sổ dùng dao cắt cổ người ấy. Đến sáng người ta mới phát giác là người ấy bị giết. Nhớ lời chị tôi dặn, tôi cúi đầu chào lễ phép. “Chào chú!”

Cùng đi theo đám người xét hộ khẩu có thím Hai Hiếu. Thím hỏi mẹ chồng:

“Má thấy thằng Út đâu không?”

Thím điên điên dại dại mấy hôm nay, sực nhớ đến thằng con nên đi tìm.

“Không. Hôm qua má rờ thấy nó nóng hổi. Hỏi nó có muốn ăn cơm không nó lắc đầu. Nó muốn nằm dưới gầm giường cô Du cho mát.”

Đám người xét hộ khẩu này không vào nhà anh Hiền cũng không vào nhà bà Tám mà đi thẳng vào nhà tôi. Ông Sanh bảo tôi đưa ông lên trên gác để khám nhà. Tôi hơi run nhưng hy vọng anh Hiền đã chuyền qua lan can nhà anh rồi. Thấy cửa dẫn ra lan can hé mở ông bảo tôi dẫn ra ngoài lan can. Tôi tự hỏi không biết anh Hiền có mang súng theo không. Tôi chỉ sợ anh bắn nhầm tôi vì tưởng tôi là ông Sanh. Tôi ngỡ ngàng thấy anh Hiền vẫn còn đứng đó. Ông Sanh bảo anh trình giấy tờ, sau đó mời anh đi ra ngoài phường.

Trong lúc nhà tôi bị xét hộ khẩu, một nhóm khác gọi cửa nhà chị Du. Họ đập cửa ầm ĩ đến độ chị phải mở cửa. Ông Công chức bước ra, áo quần chỉnh tề. Công an hỏi giấy tờ ông và mời ông ra phường. Tôi không nhìn thấy mặt ông Công chức vì tôi đang bận rộn với giấy tờ hộ khẩu nhà tôi.

Thím Hai Hiếu hớt hải hỏi: “Chị Du, thằng Út có ngủ quên dưới gầm giường của chị không?”

“Không có.” Chị Du trả lời cụt ngủn.

Theo đám người ra cổng, tôi thấy có một đường kiến bò vòng quanh những cái lu chứa dưa cải của bà Tám. Mọi năm cây mận có nhiều trái ngọt nên có kiến nhưng năm nay cây mận không có trái nào. Thấy cây mận héo rũ, tôi ngạc nhiên vì suốt buổi khám hộ khẩu trong cơn nhốn nháo tôi quên cái nóng điên người.
Có người hỏi thằng Út có trốn trong lu không? Trước sân nhà bà Tám, dọc theo hồ chứa nước là hàng lu cao đến ngực dùng để chứa dưa cải. Sau khi nhúng dưa cải vào nước nóng, cải được xếp vào lu và rải muối hột, một lớp cải còn nguyên bẹ, một lớp muối, sau đó cho nước muối nấu để nguội vào và đậy kín bằng những cái nắp lu rất nặng. 

Bà Tám biết võ Bình Định. Thỉnh thoảng dạy Ngọc và Kim Ngà tập võ trước hàng lu. Có lần ông Tám, sau khi nhậu say đánh con và chửi vợ, bà Tám bế bổng ông chồng của bà, ném ông vào một cái lu đang mở nắp. Ông rơi vắt trên miệng lu, cái mông nằm trong lu tay chân bên ngoài không ra được phải nhờ người kéo ông ra. 

Thằng Út không thể nào leo lên miệng lu được. Tuy nhiên bà Tám cũng thử ra hàng lu để kiểm soát. Thấy hàng kiến rất dài bò ngoằn ngèo quanh hàng lu bà đi theo. Út nằm dưới đất, giữa mấy kẽ lu. Kiến bu đầy mắt mũi của nó. Giun lãi bò ngo ngoe ra miệng mũi của thằng Út. Có lẽ trời nóng quá Út tìm bóng mát giữa những hàng lu và vì bệnh, chết luôn ở đó. Giun lãi trong bụng của Út, bò ngược ra đi tìm sự sống. Mùi hôi thối phát ra từ xác của Út chứ không phải cây mận. 

Tôi suy nghĩ mãi tại sao anh Hiền không leo từ nhà tôi qua nhà anh, hay leo lên mái nhà. Có lẽ anh tuy có sức mạnh, biết dùng súng và dao, nhưng không biết đánh đu lộn ngược lên mái nhà như hiệp sĩ trong phim kiếm hiệp. Khoảng cách từ nhà tôi sang nhà anh khá xa, anh không thể nhảy vì không có thế, và không thể chạy lấy trớn. Nếu nhảy có thể sập lan can. Thêm một điều nữa là chân của anh quá ngắn, anh không thể xoạc chân từ lan can này qua lan can kia. Vâng, anh rắn chắc như lực sĩ nhưng chỉ mỗi tội anh lùn quá.  

Những cánh cửa đóng lại ngày hôm đó đóng luôn tương lai anh du đãng tên Hiền mà không hiền, mối tình vụng trộm của chị Du và ông công chức. Ông Công chức bị tạm giữ cho đến khi vợ ông mang hộ khẩu nhà ông đến chuộc ông ra. Chắc chắn ông không thể giấu quan hệ của ông với chị nữa. Chị Du bị mất nguồn tài trợ và vài tháng sau chị phát hiện chị có mang đứa con thứ nhì. Anh Hiền đi cải tạo biệt dạng. Cây mận xanh gục chết. Tôi nhìn cái hẻm cụt, nhìn cây mận héo, nhìn những cái cửa đóng mà nghĩ về tương lai của bé Tí và của chính tôi. Tôi thấy sắp chết ngộp trong hơi nóng.

Nguyễn Thị Hải Hà


Note: Đọc truyện này trên Gió O. Lôi về TV, sau khi đã sửa lỗi chính tả, hỏi ngã!
NQT