Ba cung nức  nở - Cô độc như Celan - Thiên tài lòe bịp - Bạo Mồm - Cho đến khi câu chuyện thê lương của tôi được kể.


Ba cung nức nở
(A lament in three voices)


Helen Vendler, trên tờ Điểm sách New York, số đề ngày 31 tháng Năm, 2001, qua bài viết "Nức nở bằng ba giọng" (A lament in three voices) cho rằng, đôi khi, một bài thơ mãnh liệt đến nỗi phá bung mọi câu thúc về ngôn ngữ, địa lý, và thời đại. Và theo tác giả, đó là trường hợp bài thơ Hoang Địa (The Waste Land) của Eliot.

Đôi khi: Hoang Địa được viết năm 1922. Bây giờ, theo Helen Vendler, lại có một bài thơ mãnh liệt chẳng kém. Đó là Luận về thơ (Treatise on Poetry), của Milosz (sinh năm 1911, Nobel văn chương 1980). Nguyên bản tiếng Ba Lan, bản dịch tiếng Anh do nhà thơ Robert Haas và chính tác giả (nhà xb Ecco, 2001).

Đôi khi: Treatise được viết thời gian 1955-1956.

***

Những độc giả tiếng Anh của Milosz đã từng sửng sốt, vào năm 1988, khi một đoạn chừng năm trang của bài thơ trên xuất hiện trong Tuyển tập Thơ của ông. Họ nhận ra rằng, ở một nơi chốn nào đó tại Ba Lan có cất giấu một cõi thơ, được ấp ủ bởi một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Cõi thơ đó nói gì về thời trai trẻ của người coi vườn, tức thời kỳ trước chiến tranh? Về thơ Ba Lan? Về thế giới? Về chiến tranh mà Milosz chứng kiến tận mắt tại Ba Lan bị Đức chiếm đóng? Về nghệ thuật, nói chung? Về những rằng buộc của người nghệ sĩ? Về mối liên hệ giữa chất (matter) chính trị và dạng (form) mỹ học?

Đó là những đề tài mà Milosz quan tâm, ai đọc thơ ông đều nhận ra, nhưng chưa có một bài thơ nào mãnh liệt ôm lấy tất cả những đề tài trên, và cùng lúc muốn bung ra, như là Treatise on Poetry.

Khi viết Treatise, Milosz ở giữa cuộc đời (44 tuổi), một quãng đời cực kỳ bất trắc, cực kỳ khốn đốn về tiền bạc, và cảm xúc cực kỳ căng thẳng. Ông đã đốt bỏ mọi cây cầu nối liền với nơi chốn ông ra đời, bốn năm trước đó, khi xin tị nạn tại Pháp trong khi là Bí thư thứ nhất của Toà Đại sứ Ba Lan ở Paris. Đây là một hành động thật thê lương bi đát đối với một nhà thơ, bởi vì như người ta được biết, thi sĩ thật khó mà đoạn tuyệt với ngôn ngữ của mình; và Milosz thật khó mà được cái xã hội di dân quốc gia Ba Lan ở Paris chấp nhận: họ nghi ngờ ông, một cựu viên chức ngoại giao của chế độ Cộng sản Ba Lan. Chính vào thời điểm căng thẳng, rã rời, chán ngán đó, nhà thơ xoáy sâu vào mình, những câu hỏi về chính quá khứ của riêng ông, và của văn chương Ba Lan; và từ đó bật ra Treatise, như là đỉnh cao cõi thơ ông, với tất cả quyền năng của nó.

Phần đầu, ‘Những Đoạn Đời Tuyệt Vời’ (Beautiful Times) mô tả Krakow và văn hóa Ba Lan ở vào khúc quanh của thế kỷ 19 (tiểu đề của Milosz: ‘Krakow, 1900-1914’). Phần hai, ‘Thủ Đô’ (‘The Capital’) miêu tả Warsaw (1918-1939), và đưa ra một thẩm định – giữa thi sĩ với thi sĩ - về thi ca Ba Lan trong ba hoặc bốn thập niên đầu thế kỷ, đặc biệt là sự thất bại của nó, khi không đếm xỉa tới thực tại tràn ngập phố phường (its failure to account the reality that overwhelmed that city). Phần thứ ba,‘Tinh thần của Lịch sử’ (‘The Spirit of History’), về những năm chiến tranh (1939-1945), là một suy tưởng về bản chất lịch sử, về ngôn ngữ, và về sức mạnh thô sơ… Phần thứ tư, ‘Natura’ (1948-1949), là một bước nhẩy vọt ngỡ ngàng. Chiến tranh kết thúc. Người kể chuyện ngồi trên thuyền, trên mặt hồ ở phía bắc Pennsylvania, đợi một viễn ảnh từ những cuốn sách đọc thời thơ ấu. Đây là một suy tưởng về thiên nhiên, về Âu Châu và Mỹ Châu và về vai trò của nhà thơ trong một thế giới hậu chiến.

Nhà thơ và đồng thời dịch giả Robert Haas, qua tóm tắt một nửa thế kỷ như trên – Krakow thời hoàng kim; khí hậu văn chương Warsaw những năm trước chiến tranh; Warsaw bị Nazi chiếm đóng trong thời chiến; thiên nhiên trong Thế Giới Mới hậu chiến – cho thấy ‘sự kiện’ (matter), chứ không phải ‘thái độ’ (manner) – khổ hạnh, trăn trở, bức xức – của bài thơ, theo nhận định của tác giả bài viết "Ba cung nức nở". Nhưng chia bài thơ thành những phần như trên đã giúp chúng ta nhận ra "thái độ" của Milosz qua những chọn lựa của ông. Thí dụ như bài thơ sau đây, thời hoàng kim của Krakow [một thành phố ở Ba Lan], vào năm 1900 – những công trình tưởng niệm, những thi sĩ, những nhật báo-treo-trên gậy ở quán cà phê, những người bồi bàn của nó:

"
Cabbies were dozing by St. Mary’s tower.

Krakow was tiny as a painted egg

Just taken from a pot of dye on the Easter.

In their black capes poets strolled the streets.

Nobody remembers their names to-day,

And yet their hands were real once,

And their cufflinks gleamed above a table.

An Ober brings the paper on a stick

And coffee, then passes away like them

Without a name."

(Tạm dịch:

"Những ông tài tắc xi ngủ gà bên tháp nhà thờ St. Mary.

Krakow nhỏ xíu như trái trứng mầu

Vừa lấy ra từ lọ nhuộm vào dịp lễ Phục Sinh

Trong chiếc áo choàng đen, những nhà thơ dạo phố.

Bây giờ chẳng ai nhớ tên họ,

Mặc dù đã có lần những bàn tay của họ có thực,

Và những tay áo của họ đã ánh lên trên mặt bàn.

Một Ober mang tờ báo-trên cây gậy tới

Và cà-phê, rồi bỏ đi, giống như họ

Không một cái tên").

Bài thơ cho thấy những nét đặc biệt của Milosz khi mô tả bước đi của lịch sử bằng những hình ảnh của nó: thu nhỏ thành phố vào một trái trứng, nỗi u hoài muốn thời gian đừng trôi, đời vẫn đẹp như thuở nào (‘chẳng ai còn nhớ…’), sức nóng bỏng của chi tiết (‘những tay áo ánh lên’), bước chuyển từ quá khứ vào hiện tại gần như chẳng ai có thể nhận ra (những bàn tay của họ ‘đã’ có lần có thực, những tay áo ‘đã’ ánh lên), một Ober mang tờ báo…/rồi bỏ đi giống như họ/Không một cái tên…. Giữa những chi tiết hình ảnh nhìn/đã nhìn đó, là nỗi bức xức của nhà thơ thời kỳ 1900-1955.

Phần hai: Thủ Đô Warsaw, 1918-1939, cho thấy nhiệm vụ của nhà thơ [Milosz] khi làm công việc ghi nhận theo kiểu biên niên, nỗ lực của văn chương, từ chủ nghĩa quốc gia Ba Lan thế kỷ 19 nhập vào dòng văn chương hiện đại thế giới. Ông nói: Ở Ba Lan, thi sĩ là một phong vũ biểu. Ông chỉ ra từng trường hợp thất bại của những thi sĩ Ba Lan, ngay cả những người mà ông mến mộ, khi họ đụng đầu với thực tại Ba Lan sau Đệ Nhất Thế Chiến:

"Chẳng thể nào có được một Nhị Thập Bát Tú!

Tuy nhiên trong những lời nói của họ có một điều gì nứt rạn

Một nứt rạn của sự hài hòa, như là ở những sư phụ của họ.

Bản đồng ca đã được thi vị hoá

Chẳng khác gì lắm, so với sự hỗn độn của đời thường."

Sau đây là một số nhà thơ đã từng toan tính vượt thực tại thời của họ, và thất bại, được Milosz mô tả bằng những mẩu, đoạn thơ. Nhà thơ đầu tiên, Jan Lechon, tác giả bài thơ viết năm 1918, ‘Herostrates’ (từ tên một kẻ đốt dền thờ Artemis), đã quyết định từ bỏ lịch sử và chọn lựa thiên nhiên để rồi ngậm ngùi trong hoài nhớ (nostalgia); nhà thơ thứ nhì, Antoni Slonimski, dâng hiến đời mình cho chủ nghĩa duy lý thời kỳ Soi Sáng, mà theo nhà thơ, đã được bạo lực làm cho sống động, tràn trề sinh lực. Thứ ba là Julian Tuwim một nhà thơ viễn tưởng khổ vì những viễn tưởng của chính mình, cuối cùng trở thành láp nháp (rơi vào những suy tư ước lệ của chính mình). Cả ba nhà thơ đều bị vướng bẫy và rớt vào những tuyệt lộ cho chính họ tạo ra:

Lechon-Herostrates mắc bẫy quá khứ

Ông muốn nhìn mùa xuân

Chứ không phải Ba Lan.

Thế là cứ trầm ngâm cả đời về chiếc áo dài của một Ba Lan Cổ

Và những thói xưa…

Buồn, và cao cả phong nhã,

Slonimski thì sao?

Kẻ nghĩ rằng thời của lẽ phải đã điểm

Tự hiến mình cho tương lai

Xưng tựng nó

Theo kiểu của Well,

Hoặc một kiểu nào khác.

Khi bầu trời của Lý Trí đỏ như máu,

Ông ta đem những năm tháng xanh xao của mình

Cho Aeschylus…

[Tuwim] mơ những trường ca,

Nhưng tư tưởng của ông ta thì ước lệ, cũ mòn

"Vô tư" như âm điệu thơ ông.

[Bằng những thứ đó, ông muốn] choàng lên những viễn mộng của mình,

Những viễn mộng mà ông ngày càng cảm thấy hổ thẹn.


Từ những nhà thơ đặc biệt, Milosz trở qua những nhóm thơ. Nhóm tiền phong bị phế bỏ vì bị coi là thoái hoá, cuối cùng ôm lấy bóng trăng "nghệ thuật vị nghệ thuật", cộng thêm ý thức quốc gia hư ruỗng. Rồi tới nhóm những nhà thơ hò theo Stalin, dửng dưng trước những tội ác của ông trùm đỏ, tiêu biểu là nhà thơ Lucjan Szenwald, ‘một trung uý Hồng quân’, mặc dù niềm tin bị xúc phạm, vẫn viết ra những vần thơ ‘tốt’:

"Thi ca chẳng mắc mớ gì tới đạo đức,

Như Szenwald, một trung uý Hồng quân đã chứng tỏ.

Vào lúc ở những trại tù gulags nơi miền bắc,

Những thân xác của một trăm dân tộc trở thành trắng hếu,

Nhà thơ ngồi viết khúc ca dâng Mẹ Hiền Siberia,

Một trong những bài thơ tuyệt vời bằng ngôn ngữ Ba Lan."


Trong khi làm công việc của một người biên niên, ghi lại tinh thần, ở trong nó, là một chủ nghĩa hiện đại bị ức chế cố tìm cách thể hiện, và rồi nhận ra, chỉ là manh mún, hoặc chẳng là gì - Milosz cho thấy sự bối rối của chính mình, như một người đàn ông trẻ tuổi, trong khi tìm kiếm những thể loại mỹ học có tính thuyết phục, chỉ thấy những kiểu mẫu bất toàn không làm sao thỏa mãn những ham muốn của mình. Rồi thì chiến tranh bùng nổ tại Âu Châu, cuộc đời, và cùng với nó, nghệ thuật của ông, vĩnh viễn thay đổi.

(còn tiếp)

Chú thích: The Waste Land (Hoang Địa): Tập thơ của T(homas) S(tearns) Eliot (1888-1965) ra đời vào năm 1922, nói về cảm thức bàng hoàng của trí thức phương Tây tỉnh mộng sau Đại Chiến 1914-18. Ảnh hưởng khắp thế giới, nhất là những vùng thuộc địa cũ của Âu Châu, vì giấc mộng tiến bộ khoa học và ngày mai tươi sáng bị ngay chính giới ưu tú của "mẫu quốc" chối bỏ. Người ta có thể lấy năm tác phẩm này được dịch ra các ngôn ngữ khác, để đánh dấu sự bước vào đương đại (tức hậu hiện đại) của các dòng văn học địa phương - chẳng khác nào lấy dịch bản của tác phẩm Tractatus Logico-Philosophicus (1921), Luận Lý Triết Học Luận, của Ludwig Wittgenstein (1889-1951), triết gia người Áo, để đánh dấu dòng triết học mới của thế kỷ thoát khỏi những lộng ngôn duy tâm và siêu hình vô căn cứ.

Bách Khoa từ điển Encarta coi Hoang Địa là một bản phân tích tan hoang (devastating analysis) cái xã hội thời Eliot.



Cô độc như Celan

"Celan est malade – Il est incurable"

(Celan bịnh. Vô phương cứu chữa).


Heidegger

"Trong cuốn sách căn lều,

Nhìn ngôi sao con suối,

Và ở nơi trái tim,

Hy vọng


Một lời sẽ tới"

(Dans le livre de la hutte,

avec un regard sur l’étoile de la fontaine,

avec, au coeur,

l’espoir d’une parole à venir)

Celan.


Paul Antschel sinh năm 1920 tại Czernowitz thuộc vùng Bukovina; sau khi Đế quốc Áo Hung sụp đổ (1918), vùng đất này trở thành một phần của Romania. Vào những ngày đó, Czernowitz sống cuộc sống êm ả trí thức với một nhóm nhỏ Do Thái nói tiếng Đức của nó. Anstchel được nuôi dưỡng để nói thứ tiếng Đức bậc cao; học vấn, một phần tiếng Đức, một phần tiếng Romania, trong có cả phần học vấn từ một trường Hebrew. Khi còn trẻ, ông làm thơ. Như Rilke.

Sau một năm học trường y (1938-1939) tại Pháp, gặp nhóm Siêu Thực, ông trở về nhà nghỉ hè, và chiến tranh làm kẹt luôn. Do hiệp ước giữa Hitler và Staline, Czernowitz bị sáp nhập vào Ukraine, thế là ông trở thành một "đề tài Xô viết" (a Soviet subject).

Tháng Sáu 1941, Hitler xâm lăng Liên Xô. Nhóm Do Thái ở Czernowitz bị xua vào một ghetto; liền theo đó là tống xuất. Hình như được báo trước, Antschel trốn được, vào cái đêm cha mẹ ông bị bắt. Họ bị đưa xuống tầu tới trại lao động khổ sai ở Ukraine bị Đức chiếm đóng, rồi chết ở đó, bà mẹ bị bắn vào đầu, khi bà không còn đủ sức đi lao động. Chính Antschel cũng đã trả qua những năm chiến tranh như một lao động khổ sai tại Axis Romania.

Được những người Nga giải phóng vào năm 1944, ông làm việc một thời gian, như một trợ viên tại một bệnh viện tâm thần, rồi làm biên tập viên và dịch giả tại Bucharest, lấy bút hiệu là Celan, một đảo tự của từ Antschel theo cách đọc Romania. Vào năm 1947, trước khi bức màn sắt của Stalin buông xuống, ông thoát được, tới Vienna, rồi từ đó, tới Paris. Tại đây, ông lấy được mảnh bằng Cử nhân văn khoa, và được bổ nhiệm làm "lecturer", về văn học Đức tại ngôi trường nổi tiếng Cao Đẳng Sư Phạm, một chức vụ mà ông giữ tới khi chết. Ông kết hôn với một người đàn bà Pháp, theo Ca tô giáo, và thuộc dòng quí tộc.

Cuộc thành công, khi di chuyển từ Đông qua Tây, chẳng mấy chốc cho thấy mầm độc hại của nó.

Trong số những nhà thơ mà Celan chuyển dịch, có thi sĩ người Pháp Yvan Goll (1891-1950). Claire, bà vợ góa của nhà thơ này đã lên tiếng tố cáo Celan ăn cắp một số bài thơ bằng tiếng Đức của chồng bà. Mặc dù những lời tố cáo bẩn thỉu, có lẽ phải nói là khùng điên, nhưng thảm thay, chúng thấm vào Celan, đến nỗi ông tin rằng Claire Goll là một phần trong một âm mưu chống lại ông. "Những người Do Thái chúng ta còn phải chịu đựng thế nào nữa?", ông viết cho một bạn tâm phúc Nelly Sachs, cũng nhà văn Do Thái viết bằng tiếng Đức. "Bạn không thể đếm được bao nhiêu người trong số chủ chốt đâu, không, bạn Nelly Sachs, bạn không hiểu gì hết! Nếu tôi đọc tên [những kẻ đó], bạn sẽ cảm thấy ghê rợn."

Phản ứng của nhà thơ không phải là hoang tưởng. Cùng với một nước Đức hậu chiến ngày thêm tự tin về nó, chủ nghĩa bài Do Thái lại ló mòi, không chỉ ở phía hữu, mà luôn cả ở phía tả. Celan cảm thấy – không phải là không có căn cứ – rằng ông là một cái đích thuận tiện của phong trào đòi hỏi một văn hoá Đức mang tính thượng đẳng Aryan. Phong trào này đã không chịu buông tay đầu hàng vào năm 1945, và chỉ đi vào hoạt động bí mật.

Claire Goll không bao giờ chùn bước trong chiến dịch bôi nhọ Celan, truy đuổi ông xuống tận dưới mồ; những trò truy bức này đã ảnh hưởng nặng nề tinh thần nhà thơ, và góp phần rất nhiều trong việc đẩy nhà thơ tới suy sụp hoàn toàn, và cuối cùng là tự trầm.

(còn tiếp)



Malraux: Thiên tài của sự lòe bịp.

Đó là nhan đề bài viết của Didier Sénécal trên tờ Đọc (Lire), số tháng Năm 2001, về cuốn tiểu sử Malraux, mới ra lò, của Olivier Todd ("Malraux: một cuộc đời"; 690 trang; nhà xuất bản Gallimard, Paris.)

Sự thực, tất cả sự thực, chỉ sự thực: tôn trọng công thức này, Olivier Todd đã biến mình thành một nhà khảo cổ. Ông dẹp bỏ huyền thoại, đào sâu những tầng nửa-dối trá (demi-mensonges), hoàn toàn bịa đặt, thuần chỉ là ghi chú tài liệu, được tích luỹ theo năm tháng, của Malraux và những tiểu sử gia khác viết về Malraux. Ông đối chiếu đủ các nguồn thông tin, chưa từng in ấn, hồ sơ CIA, Quai d’Orsay. Kết quả thật đáng kể. Và cũng đáng nể: ông không hề "làm thịt" Malraux, cho dù, theo như tên bài viết của Didier Sénécal, đây chỉ là một thứ thiên tài của sự lòe bịp. Ông thừa nhận những tài năng sáng chói của Malraux.

Khởi từ một chàng thanh niên hai mươi tuổi, và một lời tuyên bố nẩy lửa, "Tôi sẽ tạc pho tượng của chính tôi". Để bắt đầu [tạc pho tượng của chính tôi], chàng bèn "chôm" mấy pho tượng nhỏ tại một ngôi đền ở Cambodge. Mấy tay tổ trong nghề buôn chữ, Gaston Gallimard, Paulhan… ngửi thấy mùi tiền qua thiên tài lòe bịp này, bèn giúp đỡ Malraux tự đánh bóng hình ảnh của chính mình. Sau thành công của [cuốn tiểu thuyết] Người Chinh Phục, tới vinh quang của Phận Người. Đâu cần biết thiên tài văn chương được giải Goncourt này hiểu biết Trung Hoa và cuộc Cách Mạng ở đó tới mức nào! Ba năm sau, cuộc chiến Tây Ban Nha cho Malraux cơ hội bằng vàng để ném vào đó tất cả nghị lực của mình. Todd coi thời gian 1936-38 là đỉnh cao trong cuộc đời Malraux: ông đã đóng một vai trò không thể chối cãi được trong những chiến dịch hành quân, chứng tỏ lòng can đảm, tình chiến hữu, và viết Hy Vọng, cuốn tiểu thuyết khá nhất của ông. Hào quang tỏa sáng tới thế cũng là quá xá rồi, vậy thì tại sao ông lại làm hỏng những trang sách này, bằng một vết thương dởm vì trúng đạn, và phải nằm dưỡng thương tại bệnh viện? Y hệt như Hemingway, địch thủ của ông, cả hai cùng nổi tiếng vì thêu dêät những huyền thoại về họ, và thường là liên can tới súng đạn; cả hai đều rút những cuốn tiểu thuyết ra từ cuộc đời của mình, và sống [cuộc đời của họ] ở trong những cuốn tiểu thuyết đó.

Thế cũng chưa đủ tệ. Tài liệu cho thấy, Malraux gia nhập lực lượng Kháng Chiến vào cuối tháng Ba năm 1944, sau khi hai anh/em của ông bị bắt. Chỉ vài tháng sau đó, không biết anh binh nhì xoay sở ra sao mà được gắn lon trung tá! Ông trung tá này xun xoe quanh những chiến tướng thứ thiệt, và thành công trong việc mập mờ đánh lận con đen, biến mình thành một thứ gan dạ có thừa! Ngụy tạo hồ sơ, biến thời gian gia nhập lực lượng trở thành tháng Chạp 1940, cộng thêm nhiều tài liệu ngụy tạo khác nữa, cuối cùng được trao tặng huy chương Người Bạn Giải Phóng, một trong những mề đay cao quí nhất của Pháp và Đồng Minh. Trong khi đó, hai anh/em của ông đã chiến đấu và chết, như là những người lính thực thụ, hoàn toàn trong vô danh…

Vào năm 1945, người bạn đường của những người cộng sản "cải giáo", chuyển qua phò De Gaulle, và hết sức "ngoan đạo", cho tới ngày chết. Thật dễ dàng hiểu được chuyện ông thờ phụng một trong những vị anh hùng của nước Pháp, và của thời đại chúng ta; ngược lại, người ta tự hỏi vị đại tướng nghĩ gì về "đệ tử" của mình. Todd đưa ra nhiều câu trả lời: đối với De Gaulle, Malraux được coi như một đảm bảo của tả phái; cùng với Bernanos và Mauriac lại là một đảm bảo văn chương; nhiều người nhìn Malraux như là "nữ diễn viên" của Đại tướng (la danseuse du Général).

Malraux là một trong những khuôn mặt của thế kỷ. Thành thử có những cái nhìn khác hẳn Todd, về ông. Những cuốn tiểu thuyết của ông đã đem những giấc mộng lớn đến cho nhiều thế hệ những người trẻ tuổi đam mê công lý và phiêu lưu. Những bài diễn văn của ông, chứa đầy điện, cứ thế truyền qua người nghe/người đọc.

Khi khép lại cuốn tiểu sử của Todd, người ta còn giữ lại, ít ra là hai lời phẩm bình về Malraux, một của bạn thân của ông là Raymond Aron: "Một phần ba thiên tài, một phần ba dởm, phần ba còn lại: không thể hiểu được (incompréhensible)." Một của nhân viên Quai d’Orsay, khi thầm thì với bạn bè, trước chuyến đi Ấn Độ của Malraux: "Cầu cho ông ta đừng táy máy gì ở đó!"

***

Trên tờ Điểm sách London, số đề ngày 9 tháng Tám 2001, lại là một bài điểm khác cuốn tiểu sử Malraux của Todd. Tác giả bài điểm, John Sturrock, biên tập viên (consulting editor) báo trên. Nhan đề bài viết: Người từ không đâu (The Man from Nowhere), với tiểu đề, ở bìa báo: Mai táng Malraux (Burying Malraux).

Tại lễ mai táng Malraux vào tháng 11 năm 1976, có hai vòng hoa được chuyển (delivered) tới nghĩa địa, một của Đảng Cộng sản Pháp, một tổ chức mà Malraux chưa từng tham dự; vòng hoa kia là từ Lasserre, chủ một nhà hàng ba sao ở gần Grand Palais. Đây là nơi Malraux thường lui tới dùng bữa trưa – và ‘đành’ móc bóp trả tiền nếu không có ai đi cùng. Malraux còn được hưởng vinh dự, là có tên trong tờ menu (thực đơn) của nhà hàng này – món "bồ câu Malraux" – ngay từ khi còn sống. Vinh dự này chỉ dành cho nhà văn, mà phải là "những con người hành động".

Bài viết trên tờ Điểm sách London cho biết rõ thêm về những ngụy tạo hồ sơ cá nhân tham dự kháng chiến của Malraux – một tay kháng chiến thứ thiệt, a résistant of stature, đã từng bị bắt, bị tra tấn, bị bịt mắt trước đội hành quyết… rồi tìm cách thoát được… - hai người anh em của Malraux chỉ là những anh em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; và có lẽ do xấu hổ vì những trò anh hùng dởm kể trên, Malraux đã thực sự tổ chức một toán kháng chiến có tên là Alsace-Lorraine Brigade (Đội quân vùng Alsace-Lorraine). Cho dù trang bị thô sơ, họ đã chiến đấu thật can trường, chịu tổn thất nặng nề, bên cạnh những toán quân chính quyï của tướng De Lattre de Tassigny ở vùng phía đông nước Pháp vào mùa đông cuối cùng của cuộc chiến. Bài điểm cũng cho biết thêm chi tiết về những hoạt động của Malraux, tại Đông dương, ngoài cái chuyện ‘tháo gỡ’ mấy bức tượng nho nhỏ tại một ngôi đền từ thế kỷ thứ mười tại Cambodge, bị bắt, bị tống giam và bị toà án thuộc địa kêu án ba năm tù, nhưng do bạn bè ở Pháp can thiệp, án giảm còn một năm, và là tù treo. Chỉ hai tháng, sau khi được thả, trở về Paris, Malraux cùng Clara trở lại Sài Gòn, tính xuất bản một tờ nhật báo, với mục đích làm cho nước Pháp và nước An Nam nhích lại gần nhau (a ‘daily paper of franco-annamite rapprochement’), lấy tên là "Đông dương", sau đổi thành "Đông dương bị xiềng", cho có vẻ ‘dấn thân’ (engagé, chữ của tác giả bài viết). Dự định nhật báo, nhưng chỉ là bán nguyệt san. Theo tác giả bài viết, Malraux tự chứng tỏ, ông là một quan sát viên, phân tích gia sắc bén về chế độ thực dân thuộc địa. Tờ báo của Malraux trình bầy, ghi nhận những điều bất công mà chế độ thuộc địa đối xử với dân bản xứ, cùng là hạ tầng cơ cấu xã hội nghèo nàn, điều kiện sinh sống tệ hại… Không theo một ý thức hệ nào, sự quan tâm của Malraux hoàn toàn là do cảm tình của ông đối với người dân, và cuộc sống ở đây. Ông là một người chống chế độ thực dân thuộc địa, nhưng theo kiểu của ông: sứ mệnh khai hóa của nước Pháp đã không được thực hiện tốt, nhưng đúng là một thất bại, nếu bỏ chạy. Như trong Phản Hồi ký, ông đã từng viết: Người Pháp ra đi, nhưng nước Pháp ở lại [Đông dương; Việt Nam nói riêng].

Đây có lẽ là một trong những lý do khiến một số nhà văn Việt Nam tại miền Nam trước 1975, đã từng say mê Malraux.



Bạo Mồm

Tin Văn kỳ trước có trích dẫn một số câu trả lời phỏng vấn, từ cuốn "Partis Pris", nguyên bản tiếng Anh "Strong Opinions", mà Jennifer tôi tạm dịch là "Bạo Mồm". Đây là tuyển tập những câu tuyên bố, trả lời phỏng vấn, thư từ trao đổi, những bài viết ngăn ngắn của nhà văn Nga lưu vong Nabokov. Cuốn này trước đây đã được dịch ra tiếng Pháp với cái tên "Intolérances" (Chịu không nổi), nay đổi thành Partis Pris (Định kiến), cho nó đỡ gây sốc. Nhưng Didier Sénécal, trên tờ Đọc (Lire, số tháng Năm 2001), lại chọn cho mình một cái tên dữ dằn hơn nhiều, khi giới thiệu bản dịch: Nabokov bắn trực diện (à bout portant).

Không những bắn trực diện mà còn bắn hàng tràng! Chẳng nể nang ai, ngay cả những bạn văn thân thương, thuộc hạng hiếm quí như nhà phê bình người Mỹ Edmund Wilson. Có khi ông "phạng" luôn người phỏng vấn, do trích dẫn sai, hoặc "ngu quá" không hiểu một câu văn của ông, hay của người khác, hoặc "thừa nước đục" (phỏng vấn), thả câu (để khoe rằng mình đã từng đọc nhiều)! Một vài nhận xét của ông về cuốn "Bác sĩ Zhivago" của Pasternak cho thấy, ông quả có thành kiến, giống như trường hợp những nhà văn phản kháng ở Việt Nam đã từng bị coi là "chống cộng cuội". Không những có thành kiến mà còn "tự cao tự đại": "Tôi nghĩ như thiên tài, viết như một tác giả lỗi lạc, và nói như một đứa trẻ" (Je pense comme un génie, j’écris comme un auteur distingué, et je parle comme un enfant), Nabokov đã tự giới thiệu về mình, trong Lời Mở Đầu cuốn sách trên. Riêng cái phần "Tôi viết như một tác giả lỗi lạc", người Việt chúng ta rất thông cảm, và tâm đắc nữa, bởi vì giống y chang nửa đầu câu tục ngữ "văn mình, vợ người".

Nhưng ông không phải là trường hợp duy nhất trong giới viết lách, vốn thường "iả vào miệng nhau", nói như trong câu chuyện tiếu lâm từ bắc lưu truyền vào nam, những ngày sau 30 tháng Tư.

Khổ một nổi, độc giả hình như lại khoái những chuyện, nói một cách nhẹ nhàng là "hàng thịt nguýt hàng cá", giữa mấy ông nhà văn nhà thơ. Ngay tờ báo thuộc loại đứng đắn số một thế giới, phụ trang văn học của tờ Thời Báo London, cũng phải dành một mục cho ba chuyện này, với cái tên NB. Người viết cũng dùng tên tắt, J.C. Chắc cũng ớn! Số mới nhất, đề ngày 10 tháng tám, 2001, là những lời phẩm bình chẳng êm ái chút nào với đồng nghiệp, của nhà văn gốc Ấn V.S. Naipaul. Trong trả lời phỏng vấn mới đây trên tờ Literary Reviews, ông gọi nhà văn Phi Châu Wole Soyinka, từng được Nobel văn học, từng ngồi tù bởi chế độ độc tài ở Nigeria, là "một khuôn mặt Quyền Uy, Establishment figure, tuyệt vời". Về James Joyce: Không thể đọc được, "tôi không thể hiểu tác phẩm của một người mù". Ngay cả Dickens cũng không thoát: "Ông ta chết vì cắn phải đuôi mình (vì tự nhại mình)." Khi người phỏng vấn khen ông, về sự thành công của cuốn đầu tay, ông phạng liền: Tôi mà thành công cái quái gì! Tay phỏng vấn cố vớt vát, quay qua cầu cứu những độc giả của ông, nhà văn phạng tiếp: Cái thứ nhà văn như tôi mà cũng có độc giả, hả?

Không biết "đồng nghiệp" Phạm Chi Lan và nhóm Ô Thước nghĩ sao, nếu Jennifer tôi đề nghị, mở một mục tương tự, trên VHNT?



Cho đến khi câu chuyện thê lương của tôi được kể…

Trong bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, "Đọc văn học Việt Nam hải ngoại", đã đăng trên VHNT, ông nhấn mạnh đến tính văn học, còn chuyện hải ngoại hay không hải ngoại chỉ là thứ yếu. Chống cộng hay không chống cộng, chính trị hay không chính trị, gì thì gì cũng phải có tính văn học. Nhân đó, ông cho rằng, "Không ít tác giả trong những người cầm bút ở hải ngoại tôi thấy gọi đơn giản bằng từ nhà văn như thế là đúng và đầy đủ, chẳng cần kèm theo bất cứ định ngữ nào. Nhà văn Nguyễn Bá Trạc sớm hiểu ra điều này. Trong thư của ông, gửi Phan Nhật Nam sắp rời Việt Nam sang Mỹ, có đoạn viết: "Nước Mỹ không phải là điểm đến. Nó là điểm khởi hành. Từ điểm này, người ta có thể bắt đầu những hành trình mới để nhìn thế giới một cách toàn bộ hơn. Nếu ông còn muốn tiếp tục viết thì cũng tốt lắm. Sau khi ổn định nên viết. Từ điểm khởi hành mới mẻ này, ông sẽ viết như một nhà văn, chứ không phải là nhà văn quân đội.".


Nhà văn, đơn giản vậy thôi, nhưng chắc là chỉ…"cho đến khi nào câu chuyện thê lương của tôi được kể".

Đây là một dòng thơ, của thi sĩ Samuel Taylor Coleridge, trong "Bài ca của người thuỷ thủ già":

Since then, at an uncertain hour,

That agony returns:

And till my ghastly tale is told

This heart within me burns.

(v. 582-585).

[Tạm dịch:

Kể từ đó đâu biết giờ nào,

Cơn hấp hối đó trở lại:

Và cho đến khi nào câu chuyện thê lương của tôi được kể

Trái tim này trong tôi bỏng rát.]

***

Primo Levi là một nhà văn người Ý gốc Do Thái, sống sót Lò Thiêu, trở về căn nhà mà ông dự định sẽ sống hết cuộc đời ở đó, cuối cùng tự huỷ mình, một năm sau khi cho xuất bản tác phẩm chót, "Những kẻ chết đuối và những người được cứu thoát", như là kinh nghiệm sau cùng về Lò Thiêu.

Mấy câu thơ trên được ông dùng làm đề từ cho cuốn sách trên.


Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Risa Sodi, khi người phỏng vấn cho biết, sử gia H. Stuart Hughes đã liệt kê ông là một trong sáu nhà văn Ý gốc Do Thái, hay nói gọn nhẹ, "nhà văn Do Thái", và hỏi, "cái định nghĩa ‘nhà văn Do Thái’ có hơi quá đối với ông không", Primo Levi đã trả lời:

-Ở Ý, chụp cái mũ "nhà văn Do Thái", hay "nhà văn không Do Thái", là điều không thể xẩy ra. Cái mũ này, người Mỹ ban cho tôi đầu tiên, chứ không phải người Ý. Ở Ý, người ta biết tôi là nhà văn, và "chuyện cũng thường thôi," có người còn biết thêm, tôi gốc Do Thái; theo kiểu, ông ấy là con ông A, ông B nào đó. Ở Mỹ lại là chuyện khác. Khi tôi tới đó vào năm 1985, người ta làm cho tôi có cảm tưởng, lại được gắn cho ngôi sao Do Thái ở trên ngực! Nhưng tôi chẳng cần…. Ngoài ra, tôi nhớ, sử gia Hughes đã gọi tôi là "người Do Thái độc nhất", hay "người Do Thái thực sự đầu tiên", (le premier vrai juif), tôi không nhớ rõ đúng từ ông dùng. Riêng về phần tôi, những cuốn sách khoa học giả tưởng chẳng mắc mớ gì tới Do Thái, cuốn "Chiếc mỏ lết" cũng chẳng phải là một "cuốn sách Do Thái". Nhưng nói gì thì nói, tôi thoải mái (de bon gré) chấp nhận cái định nghĩa "nhà văn Do Thái".

Người phỏng vấn hỏi tiếp, "Ở đầu cuốn ‘Những kẻ chết đuối và những người được cứu vớt’, ông trích dẫn những dòng thơ trong ‘Bài ca của người thuỷ già’; sau khi đọc cuốn sách đó, tôi [Risa Sodi] tự hỏi, liệu có thể ngưng ‘kể’ được không".

Primo Lévi trả lời:

-Người ta có thể tìm thấy câu trả lời ở trong cùng cuốn sách đó. Một số bạn tôi, những bạn rất thân, chẳng bao giờ nói tới [Lò Thiêu] Auschwitz. Ngược lại, một số khác, không bao giờ ngưng nói. Tôi thuộc một trong số sau đó. Tôi hơi lố (exagéré), khi trích dẫn nhà thơ Coleridge. Trái tim của tôi không thường trực bỏng rát…. Có thể nói, tôi hơi làm dáng (rhétorique: sử dụng tu từ) khi trích dẫn những dòng thơ đó.

Nhưng quả là những dòng thơ thật là tuyệt vời!

Jennifer Tran