nqt
   
Nguyễn Quốc Trụ
phụ trách

Tạp Ghi 
 




Ngôn ngữ sống không phải nhờ phê bình.

Đọc bài viết "Vai trò của nhà phê bình"của Trịnh Thanh Thủy trên Talawas (www.talawas.org), tôi bỗng nhớ tới một kinh nghiệm của Bùi Giáng. Một lần, ông "phạng" nhà thơ Nobel văn học người Pháp, Saint-John Perse [người viết không còn nhớ, ông phạng như thế nào], nhưng sau đó, khi đọc Saint-John Perse, hóa ra những cú phạng của ông đều là "nhảm" cả! Ông cho biết, do đọc một bài phê bình Saint-John Perse, trên tờ Nouvelle Revue Francaise, và vì uy tín của tờ báo, khiến ông cứ thế nhắm mắt tin theo.

Mới đây thôi, tôi đọc một bài báo, kể một trường hợp khá tương tự. Có một tay rách việc, bỏ công truy tìm nguyên văn một số câu trích dẫn, trong một số bài viết khá uy tín, và nhận thấy nhiều câu trích dẫn sai. Lần tìm thủ phạm, chúng đã được những phê bình gia hàng đầu trích dẫn. Và vì uy tín của họ, những người sau cứ thế lập lại nguyên xi theo mấy ông phê bình, không thèm bỏ thì giờ đọc nguyên bản.

Sự nở rộ phê bình và phê bình gia tại Tây Phương hiện nay, theo tôi, không có nghĩa coi trọng, mà là giảm giá, vai trò của cả hai. Trong một xã hội tiêu thụ, đúng như tác giả Trịnh Thanh Thủy đã nhận xét, "các tạp chí thương mại sách báo thường lôi cuốn độc giả bằng hình thức quảng cáo": như vậy vai trò của phê bình cũng chỉ là một hình thức quảng cáo, và chỉ có giá trị như một thứ fast food, một gói mì ăn liền, cho đỡ đói, trong khi chờ đợi món cao lương mĩ vị, là tác phẩm, đích thị chính nó.

Và chỉ khi đọc xong, bạn mới hét lên một tiếng sảng khoái: nó đây rồi!

Ấy là tôi muốn nói, một tác phẩm đích thị.

Đến đây thì tôi cũng đồng ý với tác giả bài viết, chỉ xin "nối điêu" một tị, rằng vai trò của nhà phê bình [nhà độc giả], quả là không thể thay thế đuợc.

Bản thân người viết, trong đời làm độc giả, cũng hân hạnh được thưởng thức hai lần "nó đây rồi", một lần với cuốn Mrs Dalloway của Virginia Woolf, và một, với cuốn "Ngôn ngữ và Câm Lặng" của G. Steiner.

Lần đầu, là tại một tiệm sách ở Sài Gòn, một ngày đẹp trời lang thang giữa những tiệm sách ở đường Bonard, tình cờ cầm lên cuốn Bà Dalloway, vào thời điểm mà cả thành phố và lớp trẻ của nó đã, đang, hoặc sẽ đợi cái ngày con quỉ chiến tranh gọi đến tên mình, và trong khi chờ đợi như thế, đọc Sartre, Camus, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, cuốn tiểu thuyết của Woolf thật quá lạc lõng, nhưng chỉ tới khi bạn nhập vào một ngày trong đời người đẹp, nhập vào cái giọng thầm thì, hay dùng đúng thuật ngữ của những nhà phê bình, giọng độc thoại nội tâm, dòng ý thức... là bạn biết ngay một điều, nó đây rồi, đây là đúng thứ "y" cần, nếu muốn viết khác đi, muốn thay đổi hẳn cái dòng văn học Việt Nam...

Mấy ngày sau, khoe với nhà thơ đàn anh, về mấy ngày đánh vật với cuốn sách, ông gật gù, mắt lim dim như muốn chia sẻ cái sướng với thằng em, và còn dặn thêm: cậu hãy nghe "tớ", phải đọc đi đọc lại, vài lần, nhiều lần...

[Sau này, đọc phỏng vấn Garcia Marquez, ông cũng cho rằng Woolf sử dụng kỹ thuật độc thoại nội tâm điệu nghệ hơn Faulkner].

Còn cuốn Ngôn ngữ và Câm Lặng là tại một thư viện ở Bắc Mỹ, như người viết đã từng kể lại, trong một bài viết về Steiner:

Lần đầu tiên, tôi làm quen với G. Steiner, nhân chuyến ghé thư viện, tình cờ cầm cuốn Ngôn Ngữ và Câm Lặng, lật đúng bài Nhà Văn và chủ nghĩa Cộng Sản, trong có nhắc tới Dr. Zhivago của Pasternak, vốn là một trong những cuốn vỡ lòng của tôi. Thế là photocopy ngay tại chỗ, về nhà dịch liền, gửi đăng trên tạp chí Hợp Lưu ở Mỹ.

Thuở mới lớn, tôi "mê" Roland Barthes, cách ông đặt vấn đề ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ phê bình... G. Steiner mở cho tôi chiều sâu tối đen của ngôn ngữ, sự câm lặng:

"Thi sĩ phải thôi đi sao? Trong một thời đại mà con người bị khiến phải thổi kèn đồng [hãy nhớ những dòng thơ xưng tụng Stalin của Tố Hữu, chẳng hạn], hoặc tru tréo nỗi khổ đau của mình như sâu bọ, như lũ chuột, tiếng nói văn chương, thứ tiếng mang tính người nhất trong tất cả mọi thứ, liệu có còn được không?"

(Should the poet cease? In a time when men are made to pipe or squeak their sufferings like beetles and mice, is literate speech, of all things the most human, still possible?)

***

"Khi ngoái lại, nhà phê bình thấy cái bóng viên quan hoạn ở sau lưng." G. Steiner mở đầu bài viết Nhân Văn, ngụ ý, "vung dao tự thiến" là thành nhà phê bình, học được môn võ công số một trong thiên hạ: Tịch Tà Kiếm Pháp (xin xem Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung).

"Phê bình gia sống kiểu tầm gửi. Anh ta viết ‘về’. Phải thí cho anh ta một bài thơ, một cuốn tiểu thuyết hay một vở kịch; phê bình gia sống nhờ ân huệ thiên tài, của những kẻ khác. Bằng văn phong, phê bình, tự thân, có thể trở thành văn chương. Nhưng chuyện này thường chỉ xẩy ra, khi nhà văn xử sự như nhà phê bình, về tác phẩm của chính y/thị; hay như một kẻ dọn đường cho thi pháp của chính hắn: phê bình ở Coleridge là tác phẩm đang tiến diễn; hay tuyên truyền của T. S. Eliot là giây phút sáng tạo. Ngoại trừ Sainte-Beuve, ai dám cho rằng, ta thuộc về văn chương, thuần tuý như một nhà phê bình? Ngôn ngữ sống không phải nhờ phê bình."

"Nhà phê bình thực sự, là đầy tớ cho nhà thơ; bây giờ, anh ta đóng vai chủ, hay bị coi là chủ. Anh ta quên bài học sau cùng của Zarathustra, bài học sống động nhất: ‘bây giờ, hãy làm, không [cần] ta’"

Tuy nói thế, nhưng chính ông – G. Steiner - cũng đành vung dao tự thiến, với hàng trăm bài phê bình điểm sách, mà ông đã có lần tự hào, chỉ có một vài bài "hỏng", sau đi đã nếm thử cái thú sáng tác, qua một vài tác phẩm, có tác phẩm đã từng đoạt giải thưởng văn học. Đó là cuốn "Cuộc di chuyển A.H. tới San Cristobal", (một thứ dụ ngôn, hoặc tiểu thuyết luận đề, A.H. ở đây là Adolf Hitler). Thú vị hơn, khi được hỏi, ông cho biết, cuốn sách - chính nó - viết, chứ không phải người (tác giả) viết.

Bởi vì theo ông, phê bình không thể thiếu, nhất là thứ phê bình cứ chĩa mũi dùi vào văn học thời mình. Như ông nhận xét, phê bình có ba vai trò, mà người viết xin trích dịch sau đây:

"Thứ nhất, nó có thể chỉ cho chúng ta cái gì [cần phải] đọc lại, và bằng cách nào. Tổng số văn chương rõ ràng là bao la, và sức ép của cái mới thì lại thường hằng. Người ta phải chọn, và chính do sự chọn lựa này, mà phê bình tỏ ra hữu dụng. Điều này không có nghĩa nó đóng vai trò [phó mặc cho] số mệnh và lọc ra một dúm tác giả hay tác phẩm như chỉ có dúm này là truyền thống có giá trị, loại bỏ những người khác (dấu hiệu chỉ ra phê bình tốt: nó mở ra nhiều cuốn sách, hơn là đóng lại). Điều đó có nghĩa, từ cái di sản rộng lớn, chằng chịt của quá khứ, phê bình sẽ mang ra ánh sáng và nhấn mạnh những gì nói với hiện tại, bằng cách nói thẳng đặc biệt hay riết róng.

Đây là khác biệt rõ rệt giữa nhà phê bình và nhà sử văn hay ngữ văn. Với nhà ngữ văn, giá trị một bản văn mang tính nội tại, nó có cái mê hoặc về ngôn ngữ hay theo kiểu biên niên, độc lập theo một liên quan rộng lớn hơn. Nhà phê bình, khi giành phần cho mình thuộc loại uyên bác, về ý nghĩa và sự vẹn toàn của tác phẩm: anh ta phải chọn. Và anh ta sẽ nghiêng về những tác phẩm có thể tạo ra cuộc thoại với những người đang sống, là chúng ta.

Mỗi thế hệ có chọn lựa của nó. Có thi ca trường tồn, vĩnh cửu nhưng thật khó mà có phê bình mãi mãi "vũ như cẩn". Tennyson sẽ có ‘ngày của ông ta’, và Donne, ‘buổi nhật thực’. Hay là, để đưa ra một thí dụ chẳng liên quan gì tới thói ham mốt này mốt nọ: trước chiến tranh, tại những trường Pháp nơi tôi theo học, nói chung là ai cũng coi Virgil như là một kẻ bắt chước Homer một cách ngây ngô, bắng nhắng. Tất cả học sinh đều khẳng định với bạn bằng một thái độ rất ư là tự tin như thế. Cùng với thảm họa, chuyện thường ngày về "cuộc tháo chạy tán loạn", và lưu vong, cách nhìn trên đã thay đổi một cách triệt để. Bây giờ, Virgil trở nên một chứng nhân thật chín mùi, thật cần thiết. Simone Weil và cách đọc ngang bướng sử thi "Iliad"; hay "Death of Virgil" ("Cái Chết của Virgil") của Hermann Broch, cả hai đều góp phần trong việc tái thẩm định. Thời gian, theo dòng lịch sử và với cuộc sống cá nhân của từng con người, đã làm thay đổi cái nhìn của chúng ta đối với một tác phẩm, hay là phần chủ yếu của nghệ thuật. Có thi ca của những người trẻ, có văn xuôi dành cho những ông già. Bởi vì tiếng kèn rộn rã của họ về một tương lai huy hoàng, tương phản trớ trêu làm sao, với kinh nghiệm hàng ngày của chúng ta. Những kẻ lãng mạn đâu còn là trung tâm của vấn đề? Thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, mặc dù ngôn ngữ thường mơ hồ và rắc rối, lại có vẻ gần gụi với lời nói chúng ta. Phê bình có thể làm cho những thay đổi do yêu cầu này trở thành có ích, loại bỏ những gì không cần thiết. Nó có thể chiêu tập từ quá khứ, những gì mà thiên tài hiện tại nhờ vả (đằng sau cái đẹp nhất của văn xuôi ở Pháp vào lúc này, là sợi gân của Diderot). Và nó có thể nhắc nhở chúng ta rằng, những phán đoán trước sau, này nọ của chúng ta chẳng tuyệt đối chẳng vĩnh cửu. Nhà phê bình sẽ "tiên cảm" (feel ahead); anh ta sẽ ngả người về phía chân trời, và sửa soạn mảnh đất cho những mùa gặt tương lai. Đôi khi, anh ta nghe tiếng vọng, khi tiếng nói đã chìm vào quên lãng; hay là trước khi nó cất lên. Vào những năm 1920, có một số người đã cảm thấy thời của Blake và Kierkegaard đang ở trong tầm tay; hay là 10 năm sau, một số đã nhận ra sự thực phổ cập, trong cơn ác mộng riêng tư của Kafka. Đây không phải vấn đề chọn kẻ thắng, nó có nghĩa: biết, rằng tác phẩm nghệ thuật tự khẳng định qua một tương quan phức tạp, theo nhu cầu, so với thời gian.

Thứ hai, phê bình có thể kết nối. Vào một thời đại mà sự mau lẹ của truyền thông kỹ thuật, nó thực sự che giấu những rào cản chính trị, ý thức hệ thuộc loại bướng bỉnh; nhà phê bình có thể xử sự như một kẻ trung gian, và người bảo quản. Đây là một phần của công việc của anh ta, để thấy rằng một chế độ chính trị không thể giáng yểm một tác phẩm của một nhà văn vào cõi quên lãng và bóp méo nó, rằng những cuốn sách [dù có bị] thiêu huỷ, tro than được vun vén, và được giải mã.

Ngay cả khi tìm cách tạo cuộc thoại, giữa quá khứ và hiện tại, nhà phê bình sẽ cố gắng, giữ cho thênh thang những con đường giao tiếp, giữa những ngôn ngữ. Phê bình mở rộng, làm rắc rối đa đoan: bức bản đồ cảm tính. Nó nhấn mạnh, rằng văn chương không thể sống, trong cách biệt, trơ trọi, mà trong một môi trường nhiều ngôn ngữ, nhiều quốc gia. Phê bình nở rộ, trong tương đồng, theo bước nhẩy xa, của giả dụ. Nó biết rằng, những kích động của một tài năng lớn hay một thể loại thi ca, trải dài theo những mẫu mã phức tạp của sự phổ biến, truyền đạt. Nó làm việc ‘à l'insigne de Saint-Jérôme’ (‘dưới huy hiệu của Saint-Jérôme’, tiếng Pháp trong nguyên bản tiếng Anh. CNTD) biết chẳng có tương đương thực sự, giữa những ngôn ngữ, mà chỉ có bội phản; nhưng toan tính chuyển dịch là một yêu cầu hoài hoài, nếu bài thơ [được viết ra là để] sống trọn cuộc đời đầy ứ của nó. Cả hai, nhà phê bình và nhà dịch thuật, cố làm điều: truyền đạt khám phá.

Trong thực hành, điều này có nghĩa, rằng văn chương được giảng dậy, và dẫn giải theo con đường so sánh. Không làm quen trực tiếp với hùng ca Ý Đại Lợi, khi phán đoán Spenser, không nắm bắt được Boileau khi đánh giá Pope, không gần gụi với Balzac, Stendhal, Flaubert khi ‘xem xét’ sự thành công của tiểu thuyết thời Victoria hay của Henry James: như vậy là đọc một cách hời hợt, giả tạo. Chỉ có chủ nghĩa phong kiến của những đại học mới chia rẽ thẳng thừng giữa nghiên cứu tiếng Anh và Những Ngôn Ngữ Hiện Đại. Thế ra là tiếng Anh không phải là một ngôn ngữ hiện đại, có thể tổn thương, và có khả năng hồi phục, tại bất cứ một thời điểm nào trong lịch sử của nó, trước sức ép của những thổ ngữ Âu Châu, của truyền thống lục địa về phép tu từ và thể loại? Nhưng câu hỏi sắc bén, chém sâu hơn là cái kỷ luật mang tính hàn lâm kể trên. Nhà phê bình nào tuyên bố rằng, con người có thể biết một ngôn ngữ cho tới nơi tới chốn, rằng việc thừa kế gia tài thi ca hay truyền thống quốc gia về tiểu thuyết, vậy là có giá trị, hay cao cả rồi; người đó đang đóng mọi cánh cửa, khi đúng ra chúng phải được mở rộng; người đó đang làm hẹp cái đầu, khi đúng ra, nó phải được mở ra cho một thành tựu rộng lớn, đồng đều hơn. Trong chính trị, chủ nghĩa Sô-vanh [chủ nghĩa ái quốc cực đoan] đã rống lên cuộc tàn phá, trận huỷ diệt; nó không có chỗ, trong văn chương. Nhà phê bình - lại ở đây, anh ta khác với nhà văn - không phải là người chết dí trong khoảnh vườn của riêng mình.

Chức năng thứ ba của nhà phê bình mới thật tối quan trọng. Nó liên quan tới sự phán đoán văn chương đương thời. Có một sự khác biệt giữa đương thời và tức thời. Tức thời tóm lấy những nhà điểm sách. Nhưng rõ ràng nhà phê bình còn có những trách nhiệm đặc biệt với nghệ thuật chính thời đại của mình. Anh ta phải tra hỏi, không chỉ chuyện, hoặc là nó trình bầy một tiến bộ kỹ thuật hay một tinh luyện, hoặc là nó thêm vô một cú xoắn về văn phong hay chơi một đòn vụng về lên cân não thời điểm; nhưng còn về những gì nó đóng góp, hay lấy đi, từ những tài nguyên nghèo nàn của đạo đức trí tuệ. Tác phẩm này đề nghị chi, nếu nói về chuyện cân đo đong đếm vóc dáng, hình ảnh con người? Đây không phải là một câu hỏi dễ nói ra, nó còn dễ bị coi là thiếu tế nhị. Nhưng thời đại chúng ta là một thời đại không bình thường. Nó quằn quại (labor), dưới sức ép của phi nhân, được kinh nghiệm theo một qui mô khổng lồ, đặc thù, và ghê rợn; và khả năng của một điêu tàn thì lấp ló chẳng đỗi xa. Người ta thích ban cho mình trò xa xỉ, là chùm chăn, đợi thời, nhưng vô phương....

***

Những cuộc tranh luận về văn học và phê bình văn học trên Talawas làm tôi nhớ tới một câu hỏi của Ronald A. Sharp với Georges Steiner, trong cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí Điểm sách Paris:

-Tình yêu là một quan niệm thần học quan trọng của Ky tô giáo. Trong ấn bản tuyển chọn tác phẩm của ông, nhà xuất bản Penguin, ông có cho rằng, "Cội rễ của tất cả những tác phẩm kế tiếp nhau của tôi, của việc giảng dậy của tôi, là niềm tin có từ rất sớm, rằng phê bình triết học và văn học nghiêm túc: nó phải tới [với bạn] như là một món nợ tình." Ông có thể giải thích điều này?

-Rất hân hạnh. Tôi đau khổ, trọn đời, về [vấn đề] sống trong một thời đại, không như nhiều người nói: của âu lo, nhưng của khinh miệt, ham muốn, và ghen tức. Tôi đã cho in trên một trăm năm chục bài viết ở trên tờ The New Yorker, và cỡ chừng trên hai trăm năm chục bài khác, tại những nơi như là tờ Times Literary Supplement (Phụ trang Văn học của Thời Báo, Luân Đôn) Trong ba mươi lăm năm, tôi nghĩ, cho là có dở đi chăng nữa, cũng chỉ độ bốn hoặc năm bài điểm sách tiêu cực. Tôi đã từng bỏ qua rất nhiều cuốn sách không điểm, vì chúng ẹ quá. Tôi đã cố ca ngợi, tôi đã cố: được rạng ngời, tôi đã cố la lên: "Hãy đọc cuốn sách này".

Tôi hoàn toàn lỗi nhịp với cung bậc Anh, mím môi thích thú từ khước, hạ cố, bắt ne bắt nét, không thèm để mắt (bất kiến, invidia: một từ to tát tiếng La Tinh về thần học luân lý), của tính hiện đại. Chúng ta đang ở trong văn hóa ghen tị. Khi tôi có những sinh viên có khả năng hơn tôi, lanh trí hơn, sâu lắng hơn, sáng tạo hơn – tôi có chừng năm hoặc sáu người như vậy, và trong số họ có người hiện đang nổi bật ở Mỹ – đây đúng là một đặc quyền lớn lao đối với tôi. Đó là lúc mọi chuyện trở nên có nghĩa, đó là lúc tôi thấy mình có ích.

Chức năng của những người như ông như tôi, là gì? Chúng ta là lũ cá hoa tiêu, những sinh vật kỳ quái, nhỏ nhoi, đi trước dẫn hướng cho loài cá thực, những con cá mập, cá voi, cảnh giác người ta: "Nó đang đến đấy!" Khi tôi ở Phi Châu, trong khu biệt lập dành riêng cho săn bắn, tôi thực sự nhìn thấy những con chim xinh đẹp, nhỏ bé, lông vàng; chúng đậu trên con tê giác, và chíp chíp như điên, để báo động cho mọi người rằng con vật đang tới. Vậy thì một vị thầy tốt, một nhà phê bình tốt sẽ nói, "Đây là thứ thiệt. Tại sao, thì đây này. Hãy đọc nó, đọc nó, hãy ghé vô mua nó. Hãy đi mua đi."

*****

Chúng ta tự hỏi, những tác giả tham dự vào cuộc tranh luận trên Talawas có thể hiện được cái món Nợ Tình đó không?

Tôi nghĩ là không.

****

Tôi "khởi nghiệp" với truyện ngắn, không phải với điểm sách, hay phê bình, hay tiểu luận. Sau này, tôi mặc nhiên coi, với chính mình, cũng như với một độc giả nào đó, nếu có, của mình, nếu được hỏi, rằng truyện đầu tay của cái truyện ngắn đầu tay của tôi là truyện Những Ngày Ở Sài Gòn, đăng trên tuần báo Nghệ Thuật số 9, (xuất bản vào năm 1965), tại Sài Gòn. Với bút hiệu Sơ Dạ Hương.

Sự thực rối rắm hơn nhiều. Một cách nào đó, tôi có tới ba truyện ngắn đầu tay, mỗi truyện có một câu chuyện của riêng nó, và Những Ngày ở Sài Gòn là đứa em út.

Truyện đầu tiên, tôi chẳng còn nhớ nổi tên, đăng trên tuần báo Mã Thượng, trang văn học nghệ thuật cuối tuần, do nhóm chúng tôi chủ trương, khi đó đều còn học trung học, có Huỳnh Phan Anh, Dương Trần Thảo, tức Dương Văn Ba, sau làm dân biểu, làm báo Tin Sáng, và tôi. Chính trên trang báo này, Huỳnh Phan Anh và Dương Trần Thảo đã cho đăng lá thư gửi nhóm Sáng Tạo, tranh luận về "nghệ thuật hôm nay" (bạn đọc có thể đọc bài viết này trên trang Tin Văn do Nguyễn Quốc Trụ phụ trách]. Lúc đó, nhóm chúng tôi chủ trương nghệ thuật hôm nay là nghệ thuật mô tả cuộc sống như nó là, gợi ý từ cụm từ "Tel Quel" của Pháp. Truyện ngắn đầu tay của tôi, lạ lùng thay, lại rất hợp với chủ trương của nhóm (Tôi còn nhớ, HPA gật gù, đúng là "tel quel" thật!). Câu chuyện một anh chàng chủ nhật khơi khơi đi ra đường, rồi khơi khơi ghé nhà em, nhìn em nhặt rau, rửa chén, rồi phơi phới ra về. Ra ngoài đường, trời mưa, và anh chàng băn khoăn hỏi trời, hỏi đất, hỏi người qua đường, hà cớ chi mà trời mưa?

(còn tiếp)

NQT