nuk_ko
Jen's sister@vientiane.2004

TẠP GHI 2 




Goulag lại hợp thời?

Nhà thơ Zabolotski, từng trải qua nhiều năm trong trại tù goulag, cũng đã từng có những dòng thơ tuyệt vời vinh danh giấc mộng khùng ‘với sức người sỏi đá cũng thành cơm', ngợi ca cuộc cách mạng văn hóa đồng ruộng xã hội chủ nghĩa, bước tiến tốt đẹp của thiên nhiên dưới sự giáo dục của con người: “Hãy biến khùng điên và lý trí trở thành một/Giữa những ý nghĩa trống trơn hãy dựng nên một căn nhà/Một ngôi trường thế giới sẽ tới với chúng ta.”
Từ goulag lại trở thành hợp thời – à la mode -  nếu người ta dám trở lại với cái từ ghê gớm này. Trên tờ Văn Học Pháp, số tháng Chạp 2003, Georges Nivat, trong mục Lịch Sử, đã điểm lại những cuốn sách mới ra lò viết về goulag: cuốn Goulag của Tomasz Kizny (nhà xb Balland/Acropole, 59 Euro), Những câu chuyện kể Kolyma, Récits de la Kolyma, tác giả Varlam Chalamov, do Catherine Fournier, Sophie Benech, Luba Jurgenson dịch từ tiếng Nga (nhà xb Verdier, 45 Euro), Liệu kinh nghiệm trại cải tạo là thuộc loại không thể nói lên được, L’Expérience concentrationnaire est-elle indicible?, tác giả Luba Jurgenson (nhà xb du Rocher, 22 Euro), và cuốn Viết sau Lò Thiêu Auschwitz: Semprun, Levi, Cayrol, Kertesz, của Pierre Mertens (nhà xb La Renaissance du Livre, 6 Euro).
Theo tác giả bài viết, chúng nêu lên câu hỏi: Làm thế nào nói điều không thể nói? Và theo ông, đây không phải lại nói về những điều ghê gớm tởm lợm đã xẩy ra trong trại tập trung cải tạo, hay Lò Thiêu, cũng không phải sự câm lặng của những nạn nhân như được mô tả trong Trái Tim Biết Chuyện [Le Coeur Informé] của Bruno Bettelheim, cũng không phải sự tự sát của những người đã thoát khỏi Lò Thiêu như nhà thơ Celan. Ở đây, trong cái xưởng vô nhân của trại tập trung cải tạo của Cộng Sản, chúng ta đụng tới cốt lõi của vấn đề mà nhà thơ Zabotlotski đã vinh danh, tức là cuộc liên minh, biến thành một, một bên là khùng điên, một bên là lý trí, mà chủ nghĩa Cộng Sản là một trong những toan tính khủng khiếp nhất của nhân loại.
Bởi vì không thể nói đến những tội ác của chủ nghĩa Cộng Sản mà bỏ qua giấc mộng tuy không tưởng nhưng thật tuyệt vời của nó: Biến khùng điên và lý trí làm một, hay nói theo triết gia số một của chủ nghĩa này, là G. Lukacs: ngay cả cái ác, thông qua lao động cải tạo, cách mạng, cũng trở thành điều chúc phúc, hạnh thánh, mặc khải, ân sủng…

Và cũng không thể nào nói đến goulag mà bỏ qua Lò Thiêu, như Jorge Semprun, trong lời tựa [một trong ba] của cuốn sách của Tomasz Kizny [album hình ảnh do tác giả, một người Ba Lan, kiên nhẫn sưu tầm trong 15 năm] đã đưa ra nhận xét: goulag của Stalin là một kế thừa trực tiếp của Buchenwald, tức là từ Lager [trại tù] của Hitler.

Nói điều không thể nói được, qua những bức hình lịch sử, những con số thống kê, như của Kizny, những thước phim, như Shoah của Jacques Lanzman, hay Goulag, thời nước, thời đá [Goulag temps de l’eau, de la Pierre]…

Và sau cùng văn chương. Làm sao bỏ qua nó?

Như Dante, khi ông đưa chúng ta xuống nơi chốn sâu thẳm của những vòng cuối cùng của địa ngục, nơi ông trình bày cho chúng ta thấy cái lạnh khủng khiếp ở đó, thì đây cũng là kinh nghiệm ở những trại tù bắc cực. Nói điều không thể nói được đó, là chỉ dăm ba người, như Chalamov với những câu chuyện Kolyma, thuộc vùng Viễn Đông sa mạc Sibérie, hay Wiesel, Kertesz. Họ đã sống sót cái số kiếp không số kiếp [survécu à un destin sans destin]. Chính cái hư vô đó, họ đã kinh nghiệm, và cố gắng làm cho chúng ta cảm được: “Ngay cả lửa địa ngục cũng không thể làm nóng cái thân xác này của tôi.”

Nghệ thuật… bất lực [impuissant], nhưng không cô độc. Song song với cách tiếp cận goulag theo kiểu điền kinh, lực sĩ của Soljenitsyne, thì có cách ẻo lả yếu ớt của Chalamov, cái nọ bổ túc cái kia. Nghệ thuật tiếp cận sự huỷ diệt con người, và cũng có thể nói, huỷ diệt nghệ thuật. [L’art s’aproche de l’extinction de l’homme, et donc de l’art aussi].

Nhưng Chalamov và Soljenitsyne đã sống sót.

Và bài ca của địa ngục, nhờ họ, vẫn văng vẳng cùng với nhân loại:

“Quỉ tha ma bắt mày đi, Kolyma/ Chốn đầy ải ghê rợn/ Chẳng ai tới đó mà về được/ Khùng điên sẽ nuốt chửng chúng ta…

“Những câu chuyện ở Kolyma” là ấn bản mới được dịch lại từ tiếng Nga qua tiếng Pháp, và theo G. Nivat, nhờ nó, người ta nhận ra vị trí của Chalamov, là ở bên cạnh những Primo Levi, Paul Celan, Imre Kertesz.