CHƯƠNG
27
Những
người chất phác
Bao
nhiêu là thứ bùa mê
Vẫn
không bằng được nhà quê của mình
Đồng
Đức Bốn
Con
người tự do: luôn luôn bạn thích
biển.
Ch.Baudelaire
44
Tôi
xuống biển tắm, tìm cách bắt cá vì
cá rất nhiều. Tôi
không có kinh nghiệm nên loay hoay cả buổi sáng mà không bắt được con
cá nào.
Tôi đói, không thể chén toàn đu đủ mà sống được. Nó làm tôi bị đi
ngoài, bị
kiệt sức. Tôi trèo lên núi, cố gắng tìm ra thứ gì ăn được. Mãi về sau,
tôi mới
tìm ra được mấy cây khoai sọ nhưng củ của chúng đều non. Tôi cũng tìm
ra được
một số tổ chim có trứng, không biết đây là tổ quạ, tổ chim sâu hay là
chim gì.
Tôi cóc cần, miễn là ăn vào không chết là được. Tôi cho vào nồi luộc
ráo cả
lên, trệu trạo nhai nuốt. Cái nồi mà ông nhà thơ vứt cho tôi chắc là
xin được ở
trên cái thuyền, cái bè nào đó. Nó là cái xoong nhôm cũ méo mó, được
cái còn
chưa bị thủng. Ở trên núi có một khe nước rất trong. Chắc đây là chỗ
duy nhất
có nước ngọt ở đảo. Tôi nhìn kỹ xung quanh, thấy có nhiều vết chân thú
và có cả
vết chân người.
Tôi
không thấy sợ bị bỏ rơi ở đây vì
thỉnh thoảng tôi vẫn
còn nhìn thấy có ca nô chở khách du lịch đi thăm vịnh ở phía xa xa. Có
cả những
thuyền câu mực và đánh cá nữa. Tôi hy vọng nếu có chiếc thuyền nào đi
lại gần
đảo thì họ sẽ phát hiện ra tôi. Tôi không thể chết ở đây được, trừ phi
tôi gặp
rủi ro như bị ngã từ trên núi đá xuống biển hoặc bị rắn cắn.
Một
buổi trưa nọ tôi ngủ thiếp đi.
Đang ngủ thì tôi giật
mình nghe tiếng loạt soạt xung quanh. Tôi chồm ngay dậy vớ lấy con dao.
Trước
mặt tôi là một ông già cao lớn tay cầm dao quắm trông rất phong trần.
Ông già
cười:
- Bắt
được
thằng ăn trộm thầu dầu đây rồi!
Chúng
tôi làm quen nhau. Tôi rất cảm
ơn vì ông già không hỏi
han lí do gì mà tôi lại ở đây một mình. Ông già nói tên là Hào, làm
công nhân
môi trường trên đảo Cát Bà, hôm nay sang đây thu hoạch đu đủ. Hóa ra
những cây
đu đủ trên núi là do ông trồng.
Ông
Hào bảo tôi:
- Chú
ở đây
không ổn. Mưa gió thì không ở được. Tôi có cái chòi ở bên kia đảo, ở
đấy tôi
thả mấy con dê. Có gì sang đấy mà ở.
Ông
Hào và tôi dọn đồ xuống cái thuyền
tre mà dân ở đây gọi
là cái mủng. Ông Hào chèo thuyền đưa tôi về phía bên kia đảo. Ở bên đó
bằng
phẳng hơn bên này, lại có cả một bãi cát nhỏ rộng chừng 200 mét vuông
tuyệt
đẹp. Ông Hào dựng ở đây một cái lán nhỏ, có hàng rào vây xung quanh.
Ông
Hào bảo tôi:
- Tôi
nuôi
mười sáu con dê, cứ thả cho nó sống tự nhiên. Ở đây không có thú rừng
nào hết
nên không sợ. Tôi ở bên đảo Cát Bà, cứ vài ba ngày thì tôi lại đi ra
đây một
lần.
Trong
lán ông Hào cũng còn ít gạo và
muối, ông Hào bảo tôi
cứ lấy mà dùng. Ông Hào hỏi tôi:
- Chú
định ở
đây lâu không?
Tôi
trả lời rằng tôi muốn ở đây chữa
bệnh, sống với thiên
nhiên một thời gian dài. Nếu khỏe hẳn lên tôi sẽ đi làm công việc gì
đấy để tự
kiếm sống.
Ông
Hào bảo:
- Tốt
lắm!
Nhưng muốn sống ở đây phải kiếm được cái mủng. Cái mủng là phương tiện
đi lại,
cũng là phương tiện kiếm sống, nó như cái xe máy, xe đạp ở trên đất
liền. Có
cái mủng, chú có thể đi về Cát Bà, Cát Hải hay đi Tuần Châu cũng được.
Nhà tôi
còn có một cái mủng cũ, có gì tôi sẽ mang cho chú mượn.
Ông
Hào đi về, để tôi ở lại. Ông Hào
đúng là “quý nhân phù
trợ”, là “phúc thiện tinh” của tôi. Hôm sau ông lại đến, mang theo một
cái mủng
cũ. Ông dạy tôi cách lái mủng. Tôi học nó rất nhanh. Lái mủng không
phải là dễ,
nhất là khi có sóng to. Sau hơn một ngày xoay xở, tôi đã bắt đầu điều
khiển cái
mủng như ý muốn.
Có
cái mủng, tôi chủ động hơn và không
còn sợ bị chết đói.
Tôi lái mủng vào vịnh Cát Bà, làm quen với các cư dân ở đây.
Cát
Bà là một vịnh lớn, ở đây neo đậu
hàng trăm chiếc thuyền
đánh cá từ các nơi đổ về: từ Quảng Ninh xuống, từ Thủy Nguyên Hải Phòng
ra, có
rất nhiều cái từ Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Ngãi, Đà Nẵng đến... Thỉnh
thoảng
cũng có vài cái thuyền Trung Quốc đến xin neo đậu. Trên bờ có một xưởng
làm đá
ướp lạnh và một chợ cá khá sầm uất. Gần đây, huyện đảo Cát Bà mở mang
du lịch
nên có khá nhiều thuyền bè du lịch chở khách đi lại tham quan trong
vịnh.
Có
khoảng chừng vài trăm cái mủng làm
việc chuyên chở người
và hàng hóa đi lại trong vịnh Cát Bà. Có nhiều gia đình cả bố mẹ, con
cháu đều
làm nghề này, ăn uống, sinh hoạt tất tật đều ở trên mủng.
Hàng
trăm cái mủng neo đậu thành một
xóm nhỏ ở trên mặt
vịnh. Có người làm bè để sống trên đó. Lại có những tàu chuyên bán nước
ngọt.
Gần như trên bờ có nghề ngỗng gì thì những cư dân sống ở trên vịnh cũng
có nghề
ngỗng như vậy: có người chuyên bán tạp hóa, có người chuyên bán rau
quả, thậm
chí có người chuyên đi thu mua phế liệu như sắt vụn, vỏ chai hoặc đồ
nhựa hỏng.
Những
khi có thuyền cá về thì hàng
chục cái mủng bu lại xung
quanh. Người mua, người bán phân loại cua, cá, tôm, mực: loại tốt mang
đi bán
cho cửa hàng xuất khẩu hoặc các cửa hàng chuyên bán đặc sản trên bờ,
loại
thường mang đi lên chợ.
Tôi
hòa nhập với những người ở đây rất
nhanh. Loay hoay, khi
thì chở khách, khi thì chở hàng, mỗi ngày cũng kiếm được đủ tiền mua
gạo, mua
thức ăn. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhận ra giá trị đồng tiền mà mình
kiếm
được. Tôi rất nể phục vài người ở đây như ông Cẩn, như chị Nga hay chú
Thăng.
Ông
Cẩn đã già, làm nghề lái mủng từ
nhỏ. Đời ông, đời cha
cũng đều sống ở vịnh này. Ông Cẩn có cả một đại gia đình có tới hơn bốn
chục
người con cháu. Ban ngày đi làm, buổi tối mọi người quây lại bên nhau.
Dù sống
kham khổ và chẳng nhiều tiền nhưng không thấy mọi người trong đại gia
đình ấy
cãi nhau bao giờ. Có con cá, con mực gì ngon, những người con lại dành
phần
mang biếu bố mẹ. Gia đình ông Cẩn gửi tiền về quê trong Thanh Hóa đóng
góp tiền
xây dựng đình làng tới cả năm chục triệu đồng có dư. Rất có thể số tiền
ấy bọn
nha lại, hương lý ở quê chén sạch cũng nên, chúng không hề biết ở đây
gia đình
ông Cẩn đã phải vất vả, cực nhọc thế nào.
Chị
Nga quê ở Thủy Nguyên, Hải Phòng.
Chồng chết để lại mẹ
già với hai đứa con. Chị Nga ra vịnh Cát Bà kiếm sống, hàng tháng gửi
tiền về
quê nuôi mẹ, nuôi con. Mùa hè đông khách, có khi chị lái mủng suốt đêm
không
ngủ.
Chú
Thăng là thương binh cụt cả hai
chân. Ngồi lái mủng, chú
có thể lái nhanh hơn cả người lành lặn khỏe mạnh. Chú rất tốt bụng, sẵn
sàng
giúp đỡ mọi người nếu ai nhờ cậy, chẳng nề hà gì.
Những
người sống ở trên vịnh thật chất
phác. Có lẽ thiên
nhiên đã dạy cho họ những kinh nghiệm, những bài học về cuộc sống.
Trước thiên
nhiên, con người thật bé nhỏ. Chỉ có chân thực thôi mới được thiên
nhiên chấp
nhận. Còn thủ đoạn, dối trá, loanh quanh sẽ chỉ chuốc vào cho mình tai
họa.
Tôi
sống ở đảo, thấy mình khỏe ra và
thấy mình suy nghĩ đơn
giản hơn về cuộc sống. Cái quá khứ trên bờ, cái nhịp sống nhốn nháo ở
thành phố
với đầy rẫy cạm bẫy hư vinh giả tạo khiến tôi lộn mửa.
I
don't know! I don't know! Tôi không
biết! Tôi không biết
tôi có đi đúng đường không?
©
Nguyễn Huy Thiệp