*



Ryszard Kapuscinski, widely regarded as the greatest journalist of the twentieth century, died in January this year. Virtually the last sentence he wrote was the one that concludes this volume of memoirs. It is a description of the receptionist at a hotel in Bodrum, Turkey, the modern name for the ancient town of Halicarnassus, where the ancient Greek historian Herodotus was born. As she greeted the ageing Pole, the “black-eyed” young Turk’s smile was professionally polite, but “tempered by tradition's injunction always to maintain a serious and indifferent mien toward a strange man”.

Kap được nhiều người coi là nhà báo vĩ đại nhất của thế kỷ 20, chết tháng Giêng vừa rồi [2007]. Cứ kể như câu văn chót ông viết, là câu đóng lại tập chót cuốn hồi ức này của ông. Câu văn tả cô tiếp tân của một khách sạn ở Bodrum, Thổ nhĩ kỳ, tên mới của thành phố cũ, Halicarnassus, nơi sử gia Hy Lạp thời cổ đại Herodotus sinh ra. Mặc dù lịch sự có thừa, đúng dân nhà nghề, nhưng nụ cười của cô thiếu nữ Thổ mắt đen lay láy vẫn phảng phất sự khinh khi, rè bỉu, lãnh đạm, đúng theo truyền thống, đối với một “người dưng”.

Đúng là một câu văn của một tay điểm sách nhà nghề, trên tờ báo văn học số 1 của thế giới. Lịch sự có thừa, nhưng gói gém tất cả những gì bài viết sau đó sẽ mở ra.
1. Herodotus là thầy của Kap.
2. Vẻ lãnh đạm truyền thống này, cũng là vẻ lãnh đạm truyền thống, của những xứ sở mà Kap viết về họ. John Ryle, trong bài điểm cuốn Bóng Mặt Trời xác nhận điều này: "Tác phẩm của ông không được nhiều độc giả Phi châu đón nhận, và họ, cả học giả, lẫn ký giả, thì đều hồ nghi sự chính xác của nó".
3. Sự tiếp nhận của Tây phương, cũng dè dặt. Đây là nói về tác phẩm The Emperor của ông, vẫn theo John Ryle. Bởi vì "hai lần dè dặt" đối với nguồn, [awareness of its doubly exotic origin]: Một cuốn sách viết về một xứ sở xa vời, và được viết bởi một tác giả cũng vời xa không kém, một "rara avis" [a rare or unique person or thing, nhân vật độc nhất], một bậc thầy, bề ngoài, của một thứ ký giả mới của Tom Wolfe, từ bên trong thế giới CS bò ra.

Ai điếu Kap. trên TLS
*

*

Phi Châu Truyền Kỳ: Kapuscinski và chủ nghĩa thực dân thuộc địa văn chương
John Ryle đọc Bóng mặt trời, The Shadow of the Sun, của  Ryszard Kapuscinski
TLS  27 July 2001

Note: Nhân trong nước cho ra lò một tác phẩm của ông.
*
Ông không viết về những thế giới tưởng tượng, cũng không viết về thế giới nội tâm của riêng ai, mà là một thế giới thực, những sự kiện đã xảy ra, những gì chính mắt ông đã nhìn thấy, và bằng thiên tài của mình, ông phân tích, xâu chuỗi, đánh giá chúng, nâng chúng lên một tầm cao mới; do đó những gì ông viết, ngoài giá trị văn học, mang một sức nặng hiếm có của các tư liệu, dữ kiện."

BBC

Tôi sợ, ngược lại! Me-xừ này vừa làm phóng viên, vừa làm gián điệp!
Tin Văn mới đi một đường về tay này, trục trặc kỹ thuật, bị mất, nay đành phải dịch một số đoạn, trên TLS, để minh chứng cho điều trên.
Herodotus được coi là 'cha già của dối trá', còn Kap (1), thì TLS gọi là 'bà mẹ dối trá'. Vậy mà dám phán là ông không viết gì về thế giới tưởng tượng!
Bài của John Ryle, trên TLS được đánh giá là bài viết hay nhất về Kap. Tin Văn sẽ chuyển ngữ trong những kỳ tới.
John Ryle: Tales of mythical Africa
Where fact meets tropical baroque: Kapuscinski and literary colonisalism
TLS 27 July 2001
*
Kap, Kap, nghe như Cạp, Cạp, khiến Gấu nhớ ra câu chuyện tiếu lâm tại sân gà vịt vào một buổi sáng sớm, anh cu chó hỏi chị gà mái:
-Này, có tin gì mới không?
-Tớ chưa gặp con vịt!
*
We have recently learned from TLS how to review books one has not read (or how to teach about such books at the university). The glorified Ryszard Kapuscinski has experienced more than most, but those who are properly familiar with themes and places he wrote about know that his version is basically fictional--even when there is enough of a veneer of truth to make it believable to many superficial readers. If Herodotus was the "father of lies", Ryszard Kapuscinski deserved the title "mother of lies". That said, it is very enjoyable to read his books, as fiction. And he deserves credit for cutting dictators down to size, but it would have been even better it he had stuck to the truth about them. That is already bad enough..
Chúng ta vừa mới biết, qua TLS, về chuyện làm sao đìểm những cuốn sách mà người điểm chưa đọc, hay là làm sao dậy về những cuốn sách như thế ở Đại học. Kap còn hiển hách hơn thế nhiều, nhưng với dân nhà nghề, họ coi sách của ông là giả tưởng, tuy nhiên, vẫn đánh lừa được nữ dịch giả như Thái Linh, thí dụ! Nếu sư phụ của Kap được coi là 'cha dối trá', thì Kap cũng xứng đáng gọi là 'mẹ dối trá'. Nhưng đọc chúng như là giả tưởng, thì cũng dzui! Ông ta được coi là người nhét những ông khổng lồ bạo chúa vào trong chai, nhưng giá mà ông cố bám vào sự thực về họ. Như vậy cũng đủ khốn nạn rồi!
*
Đây là những tính chất đã trở thành cổ điển của văn phong của Kap; một bên là bức tranh sống động, nơi hầu như chẳng có gì xẩy ra (cảnh tượng bên trong một chiếc xe taxi-bus, tiện ích của những chiếc túi ni lông đối với mấy bà nhà quê, một bên là những cuộc phiêu lưu khiến tóc dựng đứng, nơi Kap có thể mất mạng sống, chết đói, chết khát, chết bệnh thời khí vùng nhiệt đới, rắn cắn, đạn lạc…. hai bên nhập lại đẩy lên một mức, trở thành những suy tưởng mang tính triết học về một thế giới ở bên ngoài Âu châu.
Nhưng chính những dòng suy tưởng triết học của ông làm người đọc nghi ngờ tính chân xác của Kap, khi chọn lựa thể văn “phóng sự”. Sức mạnh văn phong của ông dựa trên sự chính xác, dựa trên một giọng nói của kinh nghiệm, của quyền uy, của một con người, như chúng ta được ông kể lại, trong Shad of Shads, đã sống sót hai mươi bẩy cú đảo chánh và cách mạng, người đã chạy trên những đoạn đường nóng bỏng, những con phố buồn hiu [mượn chữ của Bernard Fall viết về Việt Nam], bị cầm giữ bủa vây ở trong những thành phố, nhà phóng viên ngoại độc nhất còn ở lại trong khi tất cả bạn bè nhà báo của ông đã cuốn gói, như ông viết trong The Soccer War: Tôi đi trên con đường nơi người ta nói, không một tên mọi trắng nào đi mà thấy trở về, "I was driving along a road from where they say no white man can come back alive"...
John Ryle
Chắc chắn, mấy anh Yankee Bi Bì Xèo chưa từng đọc Kap, chắc chắn Nguyễn Thái Linh cũng chưa từng đọc TLS, chưa từng biết đến nghề tay trái của Kap?
Thảm thế!
*

Kapuscinski, phóng viên kiêm gián điệp, và do đó cần phải bị đánh giá thấp đi? Graham Greene hay John Le Carré thì không như vậy, bởi vì gián điệp của cộng sản thì tồi tệ hơn gián điệp của không cộng sản? Le Carré khi viết The Spy Who Came from the Cold đang làm nhân viên ngoại giao kiêm gián điệp ở Tây Đức, chính mắt chứng kiến bức tường Berlin được dựng lên, và nhờ đó viết được quyển sách kia, giờ vẫn được coi là kiệt tác (ở miền Nam trước đây bản dịch của Bồ Giang hình như tên là Người về từ miền đất lạnh), được Graham Greene ca ngợi và sau đó hai người thân thiết với nhau. Quyển sách nổi tiếng đến mức phóng viên báo Life cứ nhằng nhẵng bám theo để chụp ảnh, khiến Le Carré phải bỏ ngành ngoại giao. Quan hệ giữa Greene và Le Carré (cái bút danh này ngày nay có thể dịch tin tin thành Nói Cho Vuông hehe) có tính chất hai chiều: chính là nhờ học theo Our Man in Havana của Greene mà Le Carré viết được The Tailor of Panama, nhưng đến khi xảy ra vụ Kim Philby thì hai bên chửi nhau dữ dội: Philby là thượng cấp của Greene, bị phát hiện là gián điệp hai mang, Greene lên tiếng bảo vệ, Le Carré thì thấy là nhất định không thể chịu nổi. Cãi nhau một hồi thì Greene viết thư bảo cứ cãi nhau nhưng vẫn bồ bịch bạn bè nhé. Nhưng rồi các ông gián điệp ấy cũng chẳng chơi được với nhau nữa.
Blog Nhị Linh
*
Ở đây, có sự hiểu lầm: Chính là do coi Kap như là một sử gia, và những tác phẩm của ông, là sử, là sự thực, như dịch giả NTL ca ngợi, khiến Tây Phương, và ở đây, Tin Văn, phải bàn cãi. Nếu coi là giả tưởng, thì đâu có chuyện. Những ông như Le Carré, Greene có bao giờ dám coi họ là những sử gia đâu?
Còn cái chuyện ông Kap này làm gián điệp thì liên quan tới Ba Lan, và cuộc thanh trừng sau đó, mà người ta gọi là chiến dịch "săn bắt phù thuỷ", theo thuật ngữ báo chí quốc tế.
Những người dính trấu, trong những cú săn bắt này, mới nhất, là Kundera, của Tiệp Khắc.
Những ông như Greene, như Le Carré có ông nào chối, họ làm điệp viên đâu?
Còn Kap, chết rồi mới bị khui ra.
V/v liên hệ giữa Greene và Le Carré, Coetzee coi Greene là thầy của Le Carré, không phải bạn. (1)
Cuốn The Spy được tới hai người dịch, một Bồ Giang, còn một tay nữa ở hải ngoại, Gấu quên tên, và còn được Z.28 phóng tác, lấy Hà Nội làm khung cảnh, và một điệp viên Miền Nam ra Bắc, như nhân vật của Le Carré vượt Bức Tường.
Thế giới giả tưởng của Greene, là thế giới giả tưởng, trước một bước, so với Le Carré, theo Gấu. Ở Greene, chủ nghĩa CS vẫn còn đầy hào quang của nó, với những nhân vật như Mundt trong Call for the Dead, tha chết cho thằng bạn đế quốc, thí dụ.
Cuốn The Spy không giản dị như bạn NL viết, theo nghĩa, nó được viết ra do tác giả "chính mắt chứng kiến bức tường Berlin được dựng lên, và nhờ đó viết được quyển sách kia, giờ vẫn được coi là kiệt tác"...
(1) Coetzee coi Greene là từ Joseph Conrad mà ra:... his immediate descent is from the Joseph Conrad of The Secret Agent. Còn hậu duệ của Greene, kẻ bảnh nhất, là Le Carré: Of his progeny, John Le Carré has been the most distinguished.
Coetzee: Graham Greene, in trong Inner Workings, tập tiểu luận
*
Kim Philby là thầy của Greene, trong nghề gián điệp, ông phải bênh thầy, theo nghĩa đó. Le Carré, tuy rất mê CS, nhưng lại không chịu nổi cái vụ phản quốc, tuy ông rất tởm nước Anh, qua kẻ đại diện của nó, là ông bố của ông, một tên lừa đảo. Ở cuối cuốn Gương Soi Gián Điệp, chuyện mấy điệp viên nhẩy toán “ra Bắc”, bị Nữ Hoàng thí bỏ, một nhân vật, trong khi chờ chết, đã phán: Ở bên bờ con sông Ta Mì, giống như cái rạch, khi nước nhỏ, có thể vén váy nhảy qua, có một giống dân cứ nghĩ chúng là bố thiên hạ. Câu đó là của Le Carré, viết về nước Anh của ông. Lần qua Moscow, khi được đề nghị đi thăm Philby, ông chửi, bữa trước các ông đãi tôi như là người đại diện cho nữ hoàng Anh, bữa nay, mấy ông đề nghị tôi bắt tay với kẻ thù của Bả ư?
Greene có đi thăm Thầy. Và câu đầu tiên Thầy phán, cấm nói chuyện chính trị. Greene bèn nhỏ nhẹ, "Vâng, thưa Thầy, em chỉ muốn hỏi Thầy, Thầy nói tiếng Nga thạo chưa?"
*
V/v Săn bắt phù thuỷ. Trên tờ NYRB, số 28 June, 2007, trong bài Polish-Witch-Hunt, Adam Michnik viết về một sắc luật của Ba Lan, qua đó, nếu một nhân viên nhà nước từ chối không ký vào cái mẫu đơn, qua đó, người này quả quyết, chưa từng là cớm chìm trong thời kỳ CS, thì bị đuổi. Những người ủng hộ luật này cho là nước Ba Lan, vẫn còn là một đất nước bị cai trị bởi cớm. the Communist security apparatus, và cần có một cuộc cách mạng đạo đức, qua đó, kẻ có tội phải bị trừng trị, kẻ đức hạnh được tưởng thưởng, và sự bất công, injustice, phải được cứu chuộc, redeemed.
Tác giả bài viết cho rằng, hiện nay có hai nước Ba Lan đối đầu nhau. Một Ba Lan của nghi ngờ, sợ hãi, và trả thù chống lại một Ba Lan của hy vọng, can đảm và đối thoại. Trong nước Ba Lan thứ nhì, của sự cởi mở, và dung hoà, openness and tolerance, có Đức Giáo Hoàng II, nhà thơ Czeslaw Milosz…và Ba Lan này phải vượt lên, prevail.
*

 Bài viết của John Ryle, cũng như một số bài khác cũng trên TLS, nghi ngờ tính xác thực của những “sử liệu” của Kap. Thành thử khó mà so sánh Kap với những nhà báo Tây phương, vừa làm báo vừa làm gián điệp. Và họ đâu phải giấu diếm nghề tay trái của họ, như Kap?
Tính xác thực của cuốn The Emperor bị nghi ngờ đến nỗi những nhà phê bình phải đặt câu hỏi, liệu chăng, đây là một cuốn sách sử liệu về cuộc đời của một ông vua, hay là một ẩn dụ, về chế độ toàn trị: In answer to such criticisms it is sometimes argued that The Emperor is not meant to be about Ethiopia at all, that it is an allegory of Communist power in Poland, or of autocratic systems anywhere.
Và có vẻ như Kap cũng chịu lời giải thích như vậy.
Apologists for The Emperor situate it, more subtly, in a Polish literary genre where dissent masquerades as descriptive prose (Kapuscinski has laterly endorsed this view); yet the book gives no indication that it is meant to be regarded as an allegory, or as a traveller's tale in the same genre as Rasselas or Prester John. It is presented ambiguously as reportage.
Biết đâu, chính đây là ẩn ý của Nguyễn Thái Linh, người dịch, như trong đoạn "Đối chiếu lịch sử", khi trả lời BBC:
Những mô tả trong Sử Ký của Herodotus về bạo chúa Xerxes cũng khiến Kapuściński liên tưởng tới những gì đang diễn ra trong thời của ông: "Họ ngồi đó khiếp hãi và toát mồ hôi hột. [...] Không khí chắc phải giống như trong phiên họp Bộ Chính Trị do Stalin chủ tọa - cũng là sự đặt cược như thế, không chỉ bằng sự nghiệp mà là cả mạng sống."
Và dân Mít chỉ cần thay đồng chí Xì, bằng bất cứ đồng chí Mít nào khác?
*
Nhắc tới Le Carré có ngay Le Carré. John Ryle khuyên chúng ta, thà rằng đọc Le Carré còn hơn đọc Kap.
If you want an accurate summary of the war in Sudan you would do better to read John Le Carre's The Constant Gardener, which doesn't pretend to be anything other than a novel.
Khốn nạn nhất, là tay Kap này còn thực dân cả thực dân, như John Ryle viết:
As Kapuscinski himself wrote of South American baroque, "If there is a jungle it has to be enormous if there are mountains they have to be gigantic if there is a plain it has to be endless .... Fact is mixed with fantasy here, truth with myth, realism with rhetoric." The direction of Kapuscinski's exaggerations and distortions becomes apparent. This is a continent without bookshops. Its inhabitants are prisoners of their environment. They live on milk. They are outside time. (Who knows? They may even have heads beneath their shoulders.) Europeans can never really understand them. Here we may be getting close to the truth, for the one thing that the inhabitants of this hugely various continent do have in common is the experience of European colonialism or occupation. And despite Kapuscinski's vigorously anti-colonial stance, his own writing about the continent is a variety of literary colonialism, a kind of gonzo orientalism, a highly selective imposition of form, conducted in the name of humane concern, that misrepresents Africans even as it purports to speak for them.
Such criticisms do not rob Kapuscinski's writing of its bright allure, but they warn us not to take it as a guide to reality. In the last chapter of The Shadow of the Sun, there is a final epic generalization that embodies his ambiguous attitude to factual reportage and his attraction to the realm of poetry and fiction. "The kind of history known in Europe as scholarly and objective", Kapuscinski writes, "can never arise here because the African past has no documents or records, and each generation, listening to the version being transmitted to it, changed it and continues to change it .... " "As a result", he continues, "history, free of the weight of archives, of the constraints of dates and data, achieves here its purest, crystalline form - that of myth."
*
"The kind of history known in Europe as scholarly and objective", Kapuscinski writes, "can never arise here because the African past has no documents or records, and each generation, listening to the version being transmitted to it, changed it and continues to change it .... " "As a result", he continues, "history, free of the weight of archives, of the constraints of dates and data, achieves here its purest, crystalline form - that of myth."
“Thứ lịch sử được biết tới ở Ấu Châu, mang tính trường lớp và khách quan”, Kạp viết, “chẳng bao giờ có thể mọc lên ở đây, bởi vì quá khứ của Phi Châu chẳng có hồ sơ, tài liệu, ghi nhận, và từng thế hệ, nghe ấn bản được truyền lại cho nó, bèn thay đổi, và cứ thế tiếp tục thay đổi.. ”.  “Và như một hậu quả”, ông tiếp tục, ‘lịch sử, thoát ra khỏi gánh nặng của thư khố, cưỡng ép của ngày tháng, của sự kiện, bèn tiến tới cõi thăng hoa tuyệt vời của nó: Cõi Thiên Thai. Cõi Huyền Thoại”
Viết như thế về Phi Châu, thì còn khốn nạn nào bằng!
*
Du Ký: Đọc Bóng Mặt Trời của Kap.
John Ryle

*

Ryszard Kapuscinski, widely regarded as the greatest journalist of the twentieth century, died in January this year. Virtually the last sentence he wrote was the one that concludes this volume of memoirs. It is a description of the receptionist at a hotel in Bodrum, Turkey, the modern name for the ancient town of Halicarnassus, where the ancient Greek historian Herodotus was born. As she greeted the ageing Pole, the “black-eyed” young Turk’s smile was professionally polite, but “tempered by tradition's injunction always to maintain a serious and indifferent mien toward a strange man”.

Kap được nhiều người coi là nhà báo vĩ đại nhất của thế kỷ 20, chết tháng Giêng vừa rồi [2007]. Cứ kể như câu văn chót ông viết, là câu đóng lại tập chót cuốn hồi ức này của ông. Câu văn tả cô tiếp tân của một khách sạn ở Bodrum, Thổ nhĩ kỳ, tên mới của thành phố cũ, Halicarnassus, nơi sử gia Hy Lạp thời cổ đại Herodotus sinh ra. Mặc dù lịch sự có thừa, đúng dân nhà nghề, nhưng nụ cười của cô thiếu nữ Thổ mắt đen lay láy vẫn phảng phất sự khinh khi, rè bỉu, lãnh đạm, đúng theo truyền thống, đối với một “người dưng”.

*
In this brief encounter there is crystallized the effect of this book – a solitary European’s account of Asiatic and African cultures, in all their beauty but also in their impenetrability, and always in the company of Herodotus. In 1956, as a young newspaper reporter, Kapuscinski was given a copy of Seweryn Hammer’s translation of Herodotus – the first to appear in Polish – by his shrewd editor-in-chief as she despatched him to India. He began reading it on the flight to New Delhi and continued for the rest of his life. Travels with Herodotus narrates how Kapuscinski came to identify Herodotus as his role model and inspiration, both in his approach to ethnic difference and in his methods as a writer. He regards Herodotus as the first true “globalist”, who espoused “multiculturalism” and who in his lively, observant Histories composed the first great example of “reportage” in world literature.

Kapuscinski fails to say, of course, that Herodotus has since antiquity also been widely regarded as the “father of lies”. Perhaps this is a wise omission, since it is now known that under Communism, as foreign correspondent for the Polish news agency PAP, Kapuscinski also engaged in espionage. Yet none of the retrospective dirt that became attached to his name after 1989 can alter the candour and delicacy with which he explores the effect of Polish political culture on the way he conducted ethnography. A desperately impoverished childhood in wartime Warsaw made him incapable of tolerating or describing objectively the vast gulf between rich and poor that he witnessed in India, and the secular ethos of his education rendered him insensitive, he admits, to the importance in other cultures of religion, whether Hindu polytheism or Islam.

Kapuscinski witnessed many revolutions and survived several life-threatening situations, even death sentences. But he is fully aware of his own recklessness and restlessness, claiming that both he and Herodotus belonged to a tiny minority of humans destined from birth to become travel writers, fanatical cultural missionaries who devote their lives (at whatever personal cost) to the discouragement of the one thing he really hated – small-minded xenophobia. Kapuscinski made huge efforts to study the alien cultures to which he found himself posted (he was defeated by Chinese ideograms only after a considerable struggle). He declares himself an enemy of what T. S. Eliot called the “temporal provincialism” that makes people blind to the “other country” of the past. It is only in permanent dialogue with our ancestors, Kapuscinski was convinced, that the human race can become fully alive to its history as “an uninterrupted progression of events”. He therefore imagines that he is actually an eyewitness to the epoch-making events that make up Herodotus’ account of the rise of the Persian Empire, such as the emotional trauma during the siege of Babylon, or the chaotic Battle of Salamis.



Cái vụ Louis Amstrong này làm Gấu nhớ tới lần ông ghé Miền Nam, và biểu diễn kèn đồng cùng với cả băng nhạc Jazz của ông tại Hội Việt Mỹ, và thính giả Sài Gòn, cứ mỗi lần ông rú kèn là vỗ tay rào rào, khiến ông nản quá, bèn "thích thì chiều", rú kèn liên tiếp! Gấu ngồi ngay hàng ghế đầu, thế là được chụp hình, được đưa lên báo Thế Giới Tự Do.
Thú thiệt! Hình như đó là năm Gấu đang học Đệ Nhất Chu Văn An. Bữa đi coi có cả bạn C, ông anh nhà thơ.

&
Chiều một mình xuống phố, âm thầm vớ được nó, trong một tiệm sách cũ. Tay Kap này, đã từng chứng kiến 27 cú đảo chánh, và cách mạng, 4 lần nhận lệnh xé xác, lệnh hành quyết [death sentence], trong vòng bốn thập niên. Đã từng đàn đúm với Che, Allende, Lumumba. Sinh năm 1932. hơn Gấu 5 tuổi.