*





những người bạn khó quên 5

Thằng Ái hơn mình 2 tuổi, năm lớp 7 nó đã phổng phao như một gã đàn ông thực thụ.Mỗi lần thi đứa nào đái xa hơn, nó không có đối thủ, bắn một phát dài 6,7 m. Bọn mình phục lăn.
Nó đã biết ăn diện. Luôn luôn bỏ áo vào quần, kể cả vác rựa đi rừng nó cũng quần áo chỉnh tề như đến lớp. 

Túi quần sau nó nhét một cái bóp căng phồng, tất nhiên trong bóp toàn giấy loại. Nó còn găm thêm một dãy 5 cái nắp bút trường Sơn. Túi áo trên cũng một bóp căng cứng, năm cái nắp bút nhưng là nắp Kim Tinh, Hồng Hà. 

Hồi này bút cũng là một vũ khí khoe giàu, ai cũng biết túi nó toàn nắp bút thôi, cười, nó cứ mặc kệ, đeo đủ 10 cái nắp bút cả hai túi. 

Cái đầu nó chải mượt, vuốt bằng nước lã, khô lại nhúng nước lã vuốt, không khi nào ngừng. Từ nhà lên rừng chừng 7 cây số, trời nắng, đi được một đọan tóc đã khô, nếu không có con gái đi cùng thì thôi, có con gái thì nhất định cứ chốc chốc nó lại nhúng nước ruộng vuốt vuốt, nước ruộng đầy phân trâu nó cũng mặc kệ. 

Nó mê nhất chị Dục. Chị Dục bằng tuổi thằng Ái, không xinh nhưng trắng trẻo múp máp. Bộ ngực hết chê, to đùng, lúc nào cũng như muốn trào ra khỏi cổ áo. 

Bất kì nơi đâu có chị Dục là có thằng Ái, nó kè kè bên chị suốt ngày. Chị Dục không thích nó, chửi mắng nguýt lườm nó cũng mặc kệ. 

Một lần đi rừng lấy củi, hầu như chị Dục chẳng phải làm gì, chị luôn mồm nói không cần không cần, nhưng lại ngồi yên để nó lo xong cả gánh củi, cứ thế gánh về, không thèm cảm ơn nó một câu.

 Đến lớp, thằng Ái ghét nhất thầy Đường. Thầy dạy toán, dạy cực giỏi, giải toán như bày trò chơi, ai cũng hiểu, thích lắm, nhưng thằng Ái vẫn ghét. Chỉ vì thầy hay đi xuống chỗ chị Dục, mồm hỏi hiểu không nhưng mắt thì rơi tõm vào ngực chị. Một giờ cả chục lần thầy đi xuống chỗ chị hỏi hiểu không.

 Ba bốn lần thằng Ái ném trộm thầy. Có lần thầy bị sưng mặt nghỉ mất một tuần, thằng Ái ân hận lắm, nó vác cả quả mít to đến thăm thầy. Nhưng hết bệnh, đến lớp thầy cứ xuống chỗ chị Dục hỏi hiểu không. Thằng Ái lại ném đá. Nó còn lấy phần viết lên bảng tin nhà trường một câu thật to: Đả đảo đế quốc Đường!

 Mình được phân công giúp chị học tập, thằng Ái vì thế đâm ra thân mình, có gì ăn được nó đều dành cho.

 Nó nói mi canh con Dục cho tao, đừng cho thầy Đường làm bá láp.Mình nói mi nói tào lao, thầy Đường có vợ rồi, đảm bảo không có chuyện chi đâu. Nó không chịu. Hôm thì nó nói tao thấy thầy Đường rờ vú con Dục, hôm thì nói tao thấy thầy Đương nắt con Dục sau hồi lớp. Là nó tưởng tượng ra vậy thôi, chắc không có.

 Chị Dục cũng thương mình, có cái chi cũng cho mình ăn. Buổi tối hai chị em học trong hầm, chị cứ ngồi sát lại hỏi răng răng, nói lại nghe coi. Mình cũng thích nhưng không dám làm gì, lẳng lặng dịch ra.

 Chị Dục nói với mình em thân thằng Ái, nói với nó đứng có làm ba chuyện bá láp. Mình hỏi làm chi, chị nói nó đi rờ, đêm mô nó cũng đi rờ dân quân nữ đội 3.

 Hồi này trai gái 16 tuổi trở lên đều vào dân quân, đêm nào cũng tập trung ngủ một chỗ, sẵn sàng chiến đấu. Con trai ngủ ngoài đồng, con gái ngủ ở nhà kho hợp tác. Làng Đông Dương có 3 đội, ba nhà kho đêm nào con gái cũng sắp hàng ngủ cả dãy dài.

 Đêm nào thằng Ái cũng ra nhà kho đội 3 để rờ con gái. Nó khoe nó biết đi rờ từ hồi học lớp 5, anh Diệu bày cho nó. Mình nói mi làm rứa không sợ người ta bắt được à? Nó nói sợ chi, nhà kho đèn đóm không có, tối om, đa số giả đò ngủ say , mình muốn làm chi thì làm.

 Mình không tin. Nó kể nó chỉ bị một lần người ta bắt được thôi. Lúc đó nó đang rờ chị Thuận, chị giật mình tỉnh dậy chụp tay nó hỏi tay ai đây? Nó lanh trí chụp tay cô nằm bên, cô này nói tay em. Chị Thuận thả ra, thế là nó thoát.

 Nghe nó kể tay lần vào đâu, đặt tay vào đâu, bóp bóp thế nào, rất hấp dẫn. Tối nào đi rờ về nó cũng kể. Vừa sáng bảnh mắt mình đã vọt sang nhà nó hỏi răng rồi, tối qua rờ ai, rồi ngồi há mồm nghe nó kể.

 Nó nói tao rờ hết lượt rồi chỉ không rờ được con Dục, vừa động cái nó tỉnh liền. Có hôm còn cho tao mấy tát.

 Mình phục chị Dục lắm, đâm thích chị. Khi chị ngồi dịch lại gần hỏi răng răng, nói lại nghe coi, mình không dịch ra nữa.

 Mình hỏi chị, thằng Ái rờ chị, chị tát nó à. Chị nói ừ, lần sau chị cào mặt. Mình nói em rờ chị, chị có tát không? Chị lườm nói mất dạy!

 Từ đó đến hết năm lớp 7, mỗi lần ngồi học với chị Dục mình đều vẩn vơ nếu mình rờ chị Dục, không biết chị có tát không.

 Rồi mình theo thằng Ái đi rờ, chính xác là đi xem nó rờ.

 Tối om.Các nữ dân quân ngủ say như chết, có người nói mớ, có người nghiến răng, có người đánh rắm, đủ cả.

 Mình nói thầm ngủ như chết, hè? Nó nói thầm tỉnh cả đó, giả đò thôi.

 Thằng Ái lần lượt đi từ đầu dãy đến cuối dãy, có người rờ mau, có người rờ lâu nhưng đều trót lọt. Minh bám theo nó nhưng không dám làm gì, và thật sự cũng chẳng thấy nó làm gì.

 Chị Dục nằm cuối dãy, dạng chân tay thoải mái vô tư, nghiến răng ken két. Thế mà thằng Ái vừa động đến bàn chân, chị đã đạp một đạp cực mạnh trúng mũi ngay mũi nó, xong lại ngủ say sưa, lại nghiến răng ken két.

 Thằng Ái ôm mũi nói thầm mi rờ ai thì rờ mau lên, anh Diệu anh Cư sắp đến rồi. Rồi nó đi ra.

 Mình đứng một mình nhìn chị Dục nằm dạng chân tay, rất dễ rờ. Tự nhiên lên cơn thích, lén bò đến.

 Mình vừa đặt tay lên mu chị, chị đã chụp mạnh tay mình.

 Mình giật mình, lạnh toát, tim đập thình thình, cố rút tay bỏ chạy nhưng không được.

 Chị Dục vẫn ngủ, nghiến răng ken két, tay vẫn giữ chặt tay mình. Chị kéo tay mình lên bụng rồi ẩn từ từ, đưa tay mình vào trong quần chị.

 Mình chạy ra khỏi nhà kho.Thằng Ái hỏi răng? Mình cười, nói hay hè. Nó hỏi mi rờ ai, mình nói chị Dục. Thằng Ái trợn mắt nghiến răng, nó đạp mình một đạp lộn đúng 3 vòng.

 Từ đó thằng Ái không chơi với mình nữa, đến cái mặt cũng chẳng thèm nhìn.

 Mình xấu hổ cũng lánh dần chị Dục.

 Hết lớp 7, cả chị Dục và thằng Ái đêù ở nhà. Mình lên học cấp 3.

 Một chiều mình gặp thằng Ái ngồi bệt giữa đường, mặt sưng vù. Minh hỏi đi mô rứa, nó không nói, mình hỏi mặt răng rứa nó cũng không nói.

 Rất lâu sau nó ngẩng lên, mắt rưng rưng nói con Dục vẫn không cho tao rờ.

 Tháng sau thằng Ái đi bộ đội, đến năm1974 thì báo tử
*

 Gần anh Tường mới biết anh quí trọng anh Sơn như thế nào. Gặp nhau thì vẫn gọi ông tôi, nhưng khi vắng anh Sơn, anh Tường đều nói Trịnh Công Sơn thế này, Trịnh Công Sơn thế kia, tuyệt không gọi tên cộc lốc, chứ đừng nói anh gọi bằng thằng.

 Hầu hết những người anh Tường quen thân anh đều kể cho mình chuyện thâm cung bí sử của họ. Riêng anh Sơn thì không, tuyệt nhiên không. Phàm bất kì chuyện gì mà nếu kể ra ngươì nghe có thể hiểu anh Sơn sang hướng khác thì có cạy răng anh Tường cũng chẳng nói ra.

 Mình nhiều khi cũng lân la hỏi anh Tường chuyện gái gẩm của anh Sơn nhưng anh không nói, chỉ kể những chuyện anh Xuân đã kể, hoặc báo chí đã đăng.

 Mình hỏi nhỏ anh Tường liệu anh Sơn có làm ăn gì được không, anh nói thì cũng rứa thôi. Chẳng hỉểu thế nào trong cái thì cũng rứa thôi ấy.

 Có lần anh Quán nói bài hát, hình như là bài Hát cho người nằm xuống, anh Sơn viết cho một tên phi công ông Thiệu.

 Vốn bản tính ôn hoà, lại yêu quí anh Quán vô biên, anh Tường vẫn không kìm được, nổi khùng ngay, nói bạn người ta chết thì người ta thương, cần chi biết phi công cho ông nào.

 Tôí đó hai anh cãi nhau một trận tơi bời, giận nhau mấy ngày mới chịu làm hoà.

 Mình ngồi nghe chẳng biết mô tê gì, chỉ nghĩ thầm, nếu là cha anh Tường, chắc anh cũng bảo vệ đến thế thôi.

 Anh Sơn rời Huế vào Sài Gòn cuối năm 1982 đầu 1983 chi đó, năm 1987 mới chính thức ra Huế.

 Nói chính thức là nói anh Sơn chính thức trở lại công chúng Huế, chứ năm nào anh Sơn cũng ra, khi thì một hai ngày, khi thì cả tuần, lần nào anh cũng tấp vào nhà bạn bè chơi, không bao giờ đến với đám đông.

 Buổi sáng trước khi anh Sơn ra, anh Tường có vẻ nôn nao lắm, đi vào đi ra, mặt mày rạng rỡ, cứ như bạn bè cả chục năm mới được gặp nhau.

 Anh Tường biết lần ra Huế lần này là cực kì quan trọng đối với anh Sơn. Trước đó, dù người ta vẫn hát nhạc Trịnh, là nói nhạc Trịnh trước 1975, nhưng chỉ ở nhà, còn nơi công cộng thì hầu như không có. Nhạc Trịnh trước 1975 bị mặc nhiên liệt vào nhạc vàng, kể cả những bài phản chíến có lợi cho cách mạng.

 Chẳng ai nói ra, cứ lặng lặng cấm vậy thôi. Nghe nói trong việc này có “công” của ông H., có lẽ cũng vì kị tài. Mỗi lần nhắc đến ông H., anh Sơn tỏ thái độ coi thường tức thì, hiếm thấy ai anh Sơn phản ứng mạnh như thế, kể cả những người anh không ưa.

 Năm đó đất nước bắt đầu đổi mới, ông H. đã ra làm to ở Hà Nội, anh em văn nghệ là bạn anh Sơn quyết định mời anh Sơn trở lại với khán giả Huế.

 Đêm đó tại đại học sư phạm Huế, gần ngàn sinh viên kín đặc hội trường lớn đón anh Sơn.

 Hiếm thấy khi nào anh Tường xúc động, hồi hộp đến thế, cái nốt ruồi to dưới cằm anh giật giật liên hồi.

 Khi anh Sơn từ dướí hội trường đi lên sấn khấu, cả ngàn người vỗ tay rập rập, đập nhịp theo bước chân của anh, với một không khí ngây ngất lòng ngưỡng mộ.

 Đời mình chưa thấy ai được công chúng ngưỡng mộ như anh Sơn đêm hôm ấy.

 Anh Tường vỗ tay đập nhịp theo các em, ngây ngất theo các em. Niềm tự hào về người bạn mình rạng ngời trên gương mặt anh. Cái nốt ruồi luôn luôn giật giật.

 Với nhiều người, tự hào về bạn bè bao giờ cũng chen một chút ghen tị, anh Tường thì không. Cái nút ruồi giật liên hồi chứng minh điều đó.

 Anh Sơn lên sân khấu, tưởng anh hát nhiều, nói nhiều, nhưng không, anh chỉ nói đôi câu và hát bài Em là bông hồng nhỏ, rồi xuống.

 Có lẽ anh Sơn vẫn còn nghi ngại, đất nước chỉ mới bắt đầu không khí đổi mới, bao nhiêu chuyện khó lường có thể xảy ra, nên chưa dám cởi hết lòng mình.

 Biết vậy nhưng mình vẫn thấy sao a. Một không khí hụt hẩng bao trùm khi anh Sơn vui vẻ rời sân khấu.

 Mắt anh Tường thoáng buồn, cái nốt ruồi đứng im phăng phắc.

 Sau đó anh em kéo nhau về nhà Bửu Ý. Anh Tường vẫn đi bên anh Sơn, vẫn nói nói nói cười cười, nhưng để ý thấy anh có chút gì không thỏa mãn.

 Có lẽ anh Tường nghĩ công chúng Huế xứng đáng được hưởng nhiều hơn những gì anh Sơn đã đưa đến cho họ, hoặc ngược lại, anh Sơn phải được công chúng Huế đón chào nồng nàn hơn thế nữa.

 Mình nghĩ vẩn vơ thế thôi, chứ mọi người lúc này chẳng còn ai để ý đến chuyện đó nữa, họ quây quần bên mâm rượu nói chuyện tào lao, mi mi tau tau, chọc quê nhau vui vẻ.

 Rượu vào lời ra, khi say say anh Tường nói đi nói lại với anh Sơn đáng lẽ ông phải hát bài này bài kia. Anh Tường có cái tật, khi ngà ngà hễ phát kiến ra điều gì là anh cứ đeo lấy nói miết, nói rất hay nhưng nhiều khi người nghe cũng nản.

 Anh Sơn biết tính anh Tường, mặc kệ anh muốn nói gì thì nói, đùa vui tếu táo với mọi người. Anh Tường tức, tất nhiên rượu vào mới tức, nói to hơn, dai hơn.

 Anh Sơn cầm đàn hát đi hát lại vấn đề là xì tin, vấn đề là xì tin, vấn đề đó ông ơi. Chẳng hiểu anh hát thế là có ý gì. Loanh quanh một hồi, thế nào anh Sơn anh Tường cãi nhau, lúc đầu còn nhỏ nhẹ, sau to dần, căng thẳng dần.

 Anh Bửu Ý lúng túng không biết làm thế nào xoa dịu tình hình. đến cao trào, anh Tường cầm cái chén dằn cực mạnh xuống chiếu, nói dữ dằn . Anh Bửu Ý vội nói Tường nói rứa cũng có ý đúng.

 Anh Sơn cầm cái chén dằn cực mạnh xuống đáp lại. Anh Bửu Ý lại vội vàng nói Sơn nói rứa cũng có ý đúng.

 Hết Sơn nói rứa cũng có ý đúng đến Tường nói rứa cũng có ý đúng, anh Bửu Ý vô tình làm cuộc rượu tan.

 Rượu còn nhiều, đồ mồi ê hề nhưng không ai muốn uống ăn chi nữa. Mọi người bó gối ngồi im.

 Anh Tường bỏ mâm rượu đi ra, tưởng anh đi giải, hoá ra anh ra sân dựa gốc cây đứng khóc.

 Mình chạy ra thấy mặt anh dầm dề nước mắt, anh nấc nấc, hệt chàng trai tuổi hai mươi vừa mất mối tình đầu.

 Sáng mai tiễn anh Sơn đi, hai người vẫn mặn mà thắm thiết, nói nói cười cười, như chưa hề có chuyện gì xảy ra.

 Nhưng mình để ý thấy cái nốt ruồi của anh Tường đã đứng im phăng phắc.

 He he ba bài không nói tục

 
Xưa mình ở xóm Long Hoà. Ba Đồn xưa có 4 xóm, nay gọi là phường, xưa chỉ là xóm thôi, gọi là Long Hoà, Long Thị, Long Thành, Long Hảo.
Con nít 4 Long, con trai thì chia ra đánh nhau sứt đầu mẻ trán; con gái thì châu mõm chửi nhau như hát hay, đứa nào ở Long nào ra sức nâng Long mình lên, dè bỉu Long kia.

Thành ra có bài vè đến giờ vẫn nhớ: Long Hoà cha Long Thị/ Long Thị chị Long Thành/ Long Thành anh Long Hảo/ Long Hảo khảo ( đánh, cú) Long Hoà.

Xóm mình khá hiền hoà, có chục nóc nhà, chưa thấy khi nào cãi nhau, vẫn thường qua lại mượn nhau gạo tiền, xin nhau nước mắm muối.

Nhà mình ở cạnh 3 nhà. Phía trước là nhà ông Đái Lùn chuyên nghề ăn xin ở chợ. Ông lùn tịt, cực xấu, mũi to bằng quả cà, da mặt sần sùi trông gớm chết. 

Ở cạnh nhà ông đúng 7 năm, chỉ nghe ông Đái Lùn nói đúng một tỉếng: Bình! Ấy là khi ông gọi con Bình.

 Mỗi ngày ông gọi con Bình ba lần, sáng sớm đi học và hai bữa cơm. Nghe quen đến nỗi mỗi lần nghe tiếng “Bình!” là mình thấy đói bụng liền.

 Vợ ông tên gì quên rồi, chỉ nhớ rất đẹp, tức đẹp hơn ông rất nhiều. Mạ mình, bác Thông gái cũng không đẹp bằng bà. Không hiểu sao bà lại lấy ông Đái Lùn, đã xấu lại ăn mày quanh năm ở đình chợ.

 Con Bình thì cực đẹp, nghe nói vừa mới lọt lòng nó đã có hai bím tóc xinh xinh, giống Hỉ Nhi trong phim gì đó của Trung Quốc, cả thị trấn chạy đến xem. Sau này con Bình là diễn viên đoàn tuồng Huế cho đến già.

 Ông Đái Lùn sáng 8 giờ xách bị đi, 11giờ trưa về, ăn, ngủ trưa, 2giờ chiều lại xách bị đi, 6 giờ tối xách bị về, rất đúng giờ, giống hệt viên chức đi làm.

 Bà vợ không làm gì, chỉ ngồi ngạch cửa vừa đánh vuốt móng chân, móng tay vừa ngóng ông Đái Lùn về, ông xin được cái gì đổ ra ăn cái đó, coi như xong một bữa.

 Họ cứ túc tắc kiếm từng bữa một mà cũng thấy đàng hoàng không kém các nhà khác trong xóm.

 Nhà bên trái là nhà ông Dương Mạnh Tuyển. Ông làm thợ may, may giỏi, khi nào cũng đông khách. Thành ra nhà ông giàu nhất xóm. Nhà ông giống ngân hàng của xóm, ai kẹt đều chạy sang nhà ông giật tạm.

 Con cái ông Tuyển đều đẹp trai xinh gái, học giỏi.

 Thằng Dương Toàn Thắng học trước mình một lớp, sau này làm sở văn hoá Bình Trị Thiên với mình. Nó có con vợ đẹp nhất nhì thành phố Huế. Tiếc nó chết sớm, 40 tuổi đã chết vì ung thư. Sau khi nó chết, anh Thu Bồn tán vợ nó mãi mà không được.

 Anh Dương Mạnh Đạt thì hết chê. Anh hát hay, đàn giỏi, lại biết sáng tác nhạc nổi tiếng khắp huyện. Hồi anh học lớp 10 đã làm bài hát Như những cánh chim bay, thành bài trường ca, 4 chục năm rồi học sinh trường cấp III Bắc Quảng Trạch vẫn hát.

 Ai hỏi mình ở đâu mình đều nói ở gần nhà anh Mạnh Đạt là người ta biết liền.

 Xưa Ái Vân nổi tiếng đẹp nhất nước, hát hay, đóng phim Chị Nhung đẹp như tiên sa, coi như một siêu sao. Tụi mình chỉ dám đứng ngước lên ngưỡng mộ, không khi nào dám nghĩ sẽ được gặp Ái Vân một lần.

 Thế mà (năm 1978) anh Mạnh Đạt đem Ái Vân về nhà mấy ngày, lượn đi lượn lại khắp Thị Trấn. 1 vạn dân Thị Trấn suốt ngày nức nở.

 Mình ỷ thế gần nhà anh, được nhìn Ái Vân rất gần, có lần Ái Vân còn nhờ múc nước giếng cho chị rửa chân, sướng rêm ngườì.

 Nhà bên phải là nhà ông Tụng, đại uý huyện đội phó. Hồi đó đại uý là to lắm, cả Thị Trấn chỉ mình ông đại uý, nghe nói cả huyện cũng chỉ có 2 đại uý thôi. Thế mà sát nhà mình có ngay 1 ông đại uý, oách không chịu được.

 Mỗi lần ông đi xe Commăngca về, đỗ xe trước cửa nhà, con Hoà thằng Thuận nhảy lên ngồi, bóp còi inh ỏi. Tụi mình đứng dưới ngước lên thèm nhỏ dãi.

 Nhiều lần phải cống cho thằng Thuận nửa cái bánh tráng, nó mới cho lên xe bóp còi mấy phát rồi đuổi xuống liền.

 Suốt ngày chỉ nằm mơ làm sao kiếm được nhiều bánh tráng, nịnh thằng Thuận để nó cho lên xe bóp còi.

 Chẳng ngờ chiến tranh đến, tan tác tất cả.

 Mới một trận bom nhà ông Đái Lùn chạy đầu tiên. Nhớ như in ông Đái Lùn rúc vào bụi dứa khi có tiếng máy bay. Ông chui đầu vào sâu trong bụi, cái mông ở ngoài vẫn chổng ngược, thế là ông yên tâm máy bay không thấy.

 Nhớ như in ông Dương Mạnh Tuyển đội cả bàn máy may đi một mạch từ Ba Đồn lên tuyên Hoá, mấy đứa con ông lẽo đẽo chạy theo sau. Nghe nói ông bỏ thẻ Đảng lại để đem vợ con đi sơ tán.

 Còn nhỏ chẳng biết thẻ Đảng là cái gì, chỉ biết chuyện đó rất là ghê gớm.

 Ông Tụng đi biệt không về. Mấy mẹ con thằng Thuận con Hoà cùng nhà mình chạy ra sau trảng cát trú ẩn hai năm trời, cực khổ vô cùng. Lâu lâu thấy ông Tụng mang xắc cốt về, được 10 phút lại mang xác cốt đi.

 Nhớ như in bóng ông tay xách đôi dép cao su, quần xắn móng lợn, vai mang xắc cốt, lầm lũi đi trong cát bỏng.

 Về sau nghe nói ông Tụng chết, bà Tụng lấy chồng, con Hoà thằng Thuận khổ lắm.

 Nghe nói thế thôi chứ còn nhỏ cũng không để ý. Rồi quên. Quên hẳn cả cái xóm ấy. Hai mươi năm sau viết cuốn Mảnh đời đen trắng, có nhân vật ông Cu Lùn ăn mày, chủ tịch thị trấn bỏ chức vụ chạy trốn bom, và ông đại uý lạc hậu, ấu trĩ.

 Khi viết không hề nhớ cái xóm ấy, hoàn toàn không. Đến khi sách ra, tự nhiên dân Thị Trấn mua ào ào, bàn tán xôn xao, nhân vật này giống người này, nhân vật kia giống ngươì kia, khi đó mình mới ớ ra, nhớ ra, bèn đọc lại, cũng thấy hơi giông giống thật.

 Con Bình gặp mình ở Huế hất mắt lên nói bọ tui ăn mày, ông bôi không đủ à, răng còn tả bọ tui sợ máy bay như con chó sợ cọp.

 Anh Đạt, thằng Thắng không nói gì nhưng mấy chị em gái thì tức lắm, suốt ngày ra chợ, gặp mạ, chị mình đâu thì xỉa xói: về nói thằng Lập ba tui hèn chỗ mô nữa thì viết tiếp bán mà lấy tiền.

 Mình quá ngạc nhiên, toàn là chuyện mình bịa ra cả sao ai cũng khăng là mình đang viết họ.

 Ba mình hỏi: con nói thật ba nghe: con có ám chỉ họ không.

 Mình nói không. Họ đâu phải thần tượng để con đánh đổ. Nếu ghét thì con nói thẳng ra, họ là cái gì mà con phải úp mở, ám chỉ. Hơn nữa 6, 7 năm sống ở cái xóm ấy, họ là người lớn, không hề nạt nộ đánh đập con, chưa kể thỉnh thoảng còn cho quà, ngu gì con đi ám chỉ họ.

 Ba mình nói rứa thì vì răng, mình nói con chịu.

 Mạ mình nói thôi thôi đi chữa đài, ti vi cũng kiếm được tiền, viết lách làm cái chi, ngu. Ba mình nói mạ mi nói hay, trời bắt viêt thì phải viết chớ, ai muốn. Mạ mình nói rứa thì viết mèo chó lợn gà, đừng có viết người, cực lắm.

 He he hai bài không nói tục