*




                                       


 

Mùa hè còn mãi

   Nguyễn Chí Kham

 

 

                                       Shall I compare you to a Summer’s day

                                                     William Shakespeare               

                                               

 

                                                         Phần Thứ Nhất

                                                                    I

           

            Chỉ còn ít hôm nữa là Thụy hết thời gian nghỉ phép. Sáng nay, lúc sắp xếp quần áo và các thứ quà bánh vào túi vải nhà binh, chặt gọn, căng đầy, bỗng dưng lòng anh thấy nôn nao, lạ thường,  tưởng như đang mang mang một nỗi nhớ về người mình yêu. Thực sự, Thụy đang yêu và ước mơ về Thúy Hà. Nàng đã lấy chồng, nhưng trong tình yêu vẫn còn để lại cho anh với rất nhiều lá thư.

            Huế, thành phố và con người có chung một dòng sông. Mới cách đây một tuần , không khí của mùa thi rộn rã , hoa phượng đỏ rực trời, trên đường Lê Lợi bao nhiêu tà áo trắng làm sáng đẹp một ngày mai như đó là sự xuất hiện những đàn chim thiên thần. Nhưng rồi, vang âm ấy chợt bơ vơ sau hồi trống im bặt, vắng lặng, có chút gì tựa áng mây phiêu bạt bên trời  làm bạn cảm thấy nó muộn màng, chẳng còn nữa sự đợi mong.

-Anh không đi đâu chơi ?

            Phương xuất hiện ở thềm cửa, trên bàn tay nắm đầy một chùm quả mận vừa mới hái ngoài vườn. Thụy nhìn cô em gái và thấy cả một nụ cười dịu sáng nơi cặp mắt vui của thiếu nữ.

-Anh còn bao nhiêu ngày phép nữa ?

-Sắp hết rồi.

            Phương để những quả mận vào dĩa, xong kéo chiếc ghế ngồi xuống. Một cơn gió vừa làm dịu đi sức nóng, trong tiếng lào  xào bên ngoài vườn Thụy ngửi được cả mùi vị thơm của lá và trái cây.

            Phương ăn ngon làm Thụy thèm, anh lấy một quả nhỏ, vừa cắn đã thấy có vị chát.

-Anh Nguyên lúc này, sao ?

-Anh ít khi về nhà.

            Rồi một giọng thân tình, Phương nói:

-Anh ấy đã có chị Thiên Nga.

-Bạn gái của anh ?

            Cô em gật đầu, mắt nhìn Thụy như thể dò ý. Thụy hỏi:

-Hai anh chị quen nhau lâu chưa ?

-Em không rõ, chắc là mới đây thôi.

-Em  đã gặp chưa ?

-Có chứ. Anh Nguyên đưa chị Nga về nhà chơi mấy lần.

- Thiên Nga cũng người Huế.

-Không, ở Đà Nẵng.

-Lạ nhỉ, sao anh Nguyên không nói gì hết.

-Anh về phép sớm hơn là gặp chị rồi.

-Anh đâu hay biết gì mà có ý định về thời gian nghỉ phép.

            Sau câu nói, bỗng dưng Thụy băn khoăn. Gia đình ở Đà Nẵng, cô gái ra Huế học trường Mỹ Thuật năm tới là năm thứ hai. Từ  ít nét qua trí tưởng, hình ảnh Thiên Nga tỏa rộng trên khung vải bức tranh thiếu nữ có một gương mặt đẹp, phảng phất nỗi buồn. Và chiếc áo dài tím, cô gái cũng cho anh lắng nghe ra tiếng nói, hình dung từng dáng bước đi thật dịu dàng trên những bông hoa vừa mới nở.

            Thụy hỏi Phương:

-Mẹ có hay biết gì không ?

-Có.

-Mẹ nói sao ?

-Mẹ rất vui. Cả nhà, ai cũng mến chị.

-Ờ nhỉ, anh đã hình dung thấy rồi. Mong là, hình ảnh chị ấy như anh đang nghĩ tới.

            Một giọng vui, Phương nói:

-Chị Nga có đọc truyện anh  viết.

-Vậy à. Anh Nguyên đưa cho chị.

-Không phải, em đưa.

-Chị có nhận xét gì không ?

-Chị nói, anh thật lãng mạn.

            Lòng vui Thụy mơ nghĩ đến người con gái, và nàng còn đây, đang hiện diện trong tâm trí anh.

            Ngày hôm sau, buổi sáng trời mưa Thụy đi Phú Bài để ghi chuyến bay. Viên Trung úy nhận giấy phép xong, quay lại xem bảng phi trình, nói:

-Ngày mai có hai chuyến Sài Gòn. Anh muốn đi sáng hay trưa ?

-Tôi muốn đi chuyến sáng.

-OK. 8 giờ có mặt.

            Xong việc, Thụy ra về. Trời đã tạnh. Thật may, Thụy xin quá giang được chuyến xe nhà binh về phố. Xe chạy không nhanh, trên đường, Thụy nhìn ngắm quang cảnh đồng quê hiện ra trong vẻ ẩm ướt sau cơn mưa. Lạ nhỉ, một niềm bâng khuâng trong anh như thể cơn gió lạnh trở mùa. Thụy đang nghĩ đến câu chuyện của Phương nói về một cô gái mà anh chưa được gặp. Cô đến Huế, rồi xa nơi này đã lâu chưa thấy trở lại.

            Thụy cứ lan man mơ mộng bóng dáng cô gái, rồi sực tỉnh khi xe về tới thành phố. Huế vẫn đông vui, rộn ràng. Xe ngừng lại phía bên đây cầu Trường Tiền. Thụy nhảy xuống xe, đưa cao tay vẫy chào tạm biệt anh tài xế và hai người lính ngồi phía trước. Họ gửi lại anh một nụ cười. Từ dốc cầu, Thụy thong thả đi bộ đến sạp báo nằm ngoài khuôn viên Đài Phát Thanh. Hiếu nhận ra Thụy, vội la lớn tiếng làm nhiều người nhìn anh chú ý. Ngày trước, Thụy khá thân với Hiếu. Nhớ một thời đi học, những buổi chiều hè Thụy thường có mặt  ở đây say mê đọc báo và hết sức vui được nghe những lời bàn luận thể thao của các cổ động viên cùng tâm ý như mình. Thế nhưng, nay thời gian đã đổi khác Thụy rất nhiều, anh  không còn say mê môn bóng tròn như trước nữa, mà từ ngày đi lính, trong lòng anh mang nặng nhiều ý nghĩ  về chiến tranh, về cuộc đời, vừa hoài nghi từ những mối mặc cảm.

            Vừa chuyện trò với bạn , Hiếu vẫn tiếp khách mua báo. Một lúc sau, câu chuyện ngừng hẳn vì khách đến khá đông.

            Thụy mua tờ báo Nghệ Thuật số cũ. Từ ngày sáng tác được vài truyện ngắn đăng báo, Thụy bắt đầu chú tâm đến các sinh hoạt văn nghệ, và ngày càng trở nên yêu thích việc đọc sách, kể cả cái thú đến phòng triển lãm xem tranh.

            Thụy không đứng lâu, trả tiền báo xong anh và Hiếu bắt tay. Hiếu hỏi:

-Hôm nào đi ?

-Ngày mai, Thụy đáp.

            Đứng ở trong quầy, cái dáng người cao, hơi gầy của Hiếu vẫn như ngày nào. Có chuyến xe buýt vừa đến, đang ngừng,  Thụy vội chạy nhanh. Lên xe, Thụy ngồi cạnh một cô gái. Tờ báo cầm trên tay, Thụy mở ra đọc lướt. Cô gái cũng ghé mắt nhìn vào trang báo của anh. Hai người không hỏi nhau một câu. Những hàng cây lùi rất xa trên đường xe đang chạy. Bên kia công viên, dòng sông đang chảy vào thành phố, Thụy chợt nghĩ đến ngày mai lên đường.

            Xe ngừng ở nhà ga, Thụy và cô gái cùng bước xuống. Mỗi người đi một ngả. Thụy hẳn sẽ còn nhớ được cô gái có cặp mắt nâu , chiếc áo dài trắng. Cô bước đi một mình. Thụy dõi mắt trông bóng dáng cô mỗi lúc xa dần, khuất biệt, khi cô đi qua lối cửa phụ bên cạnh nhà ga vào phía bên trong. Thụy chợt nghĩ  một đôi điều như mới có trong đôi mắt, anh nghe ra tiếng nói, biết tên cô gái, và căn nhà phía bên kia cánh đồng trơ trọi, nơi ấy rất dễ cho bạn tìm thấy những dấu vết chiến tranh còn đó ở hai bên hàng rào kẽm gai, ở chỗ hồ nước đầy rêu có một cây khế trái chín rụng từng ngày vương vãi trên mặt đất. Rồi, ngày nào đó cô gái đi đến một nơi xa, không hề trông mong gặp lại bạn lần nữa.

            Thụy trở gót, bước nhẹ nhàng. Về đến nhà, Thụy vui lây trong tiếng mấy đứa em reo mừng. Anh Nguyên cũng có về nhưng đã vào lại đơn vị.

            Sau bữa ăn, Thụy mở ví lấy tiền đưa cho mẹ một ít , còn lại cho mấy em. Thụy đi lính, đồng lương không nhiều, nhưng anh vẫn luôn cố gắng dành dụm cho những kỳ được về phép thăm gia đình. Một thoáng yên lặng, Thụy lại nhớ anh Nguyên  , và nhớ rất nhiều trong sự hình dung qua từng nét về một cô gái.

-Sang năm anh về phép nữa không ?

-Chưa biết. Nếu xin được kỳ nghỉ, anh về thăm.

            Có tiền của Thụy cho, em anh, đứa nào cũng cất dành. Những ngày qua anh sống thật nhẹ nhàng yên vui với mỗi bữa ăn, mỗi câu chuyện của người mẹ và các đứa em, trong tâm tình đó,  những dòng thơ Huy Cận anh yêu thích bỗng dội lên những cơn sóng nước giạt dào, tỏa ánh một miền quê , miền ấy, là quê ngoại mà trong tâm tư anh thường hay nhớ tưởng.

            Thụy trải chiếu lên tấm phản, đặt chiếc gối xong , lăn người nằm. Anh ngủ ngon giấc, lúc thức dậy, đã nửa buổi chiều. Rửa mặt xong, anh rời nhà đi bộ qua thăm dì Quyên. Nhà dì anh ở gần, đầu ngã ba trông xuống bến sông. Trời vẫn còn hanh nóng, chưa dịu hẳn.

            Vừa thấy Thụy trước cửa, Loan lên tiếng, cô gái nhìn người anh họ qua ánh mắt vui. Rồi một cô gái mặc áo trắng chợt quay đầu nhìn làm Thụy ngạc nhiên, liền nhớ ra ngay là mới gặp cô lúc trưa trên chuyến xe ngừng đỗ ở trạm nhà ga.

            Bà dì ở nhà sau đi lên, với nụ cười thật điềm đạm.

-Ngày nào con đi ?

-Dạ,  ngày mai.

            Nhìn gương mặt dì Quyên, Thụy cố gắng tìm một lời để nói. Và, lúc đó Loan giới thiệu anh  với  cô bạn học. Thụy và cô gái nhìn nhau hơi bỡ ngỡ. Nhưng rồi, lướt qua bằng giọng tự nhiên , thật vui Thụy nói:

-Anh có linh cảm là tới đây để tìm em.

-Thực không ?

-Cô hỏi bạn của cô đi.

            Loan nhìn hai người, tỏ ra ngạc nhiên. Chỉ qua ít giây bối rối thôi, câu chuyện trở nên rõ ràng, nhưng Thụy cũng hơi dài dòng khi thuật lại sự tình cờ gặp cô bạn của Loan trên chuyến xe buýt đi từ dưới phố lên ga.

            Thụy kéo ghế ngồi. Vừa lúc ấy, có tiếng rao quà của người bán hàng rong. Dì Quyên vội đứng lên đi ra cửa, rồi cất tiếng gọi. Một lúc sau, chị bán quà xuất hiện đặt chiếc gánh xuống thềm hiên.

            Cả ba người ngừng chuyện để chờ bữa quà chiều. Rất nhanh gọn, mỗi người một dĩa bánh với nước mắm dằm ớt cay.

            Ngồi bên ngoài, chị bán hàng cầm chiếc nón đưa lên quạt. Trên vầng trán của chị ít giọt mồ hôi còn đọng. Người nào ăn cũng thấy ngon. Cô gái hay ngừng đũa nhìn qua Thụy. Cô gái có nước da ngăm, cặp mắt nâu, và trên áo trắng thêu tên của cô. Một giọng nhỏ nhẹ, cô hỏi:

-Anh làm việc ở Sài Gòn ?

-Anh đi lính, đóng ở căn cứ Tân Sơn Nhất.   

            Chỉ có mình Thụy ăn thêm. Bà dì, Loan và cô bạn ăn xong một dĩa lớn là quá no. Nhìn ra ngoài hiên, Thụy thấy chị bán hàng đang rửa chén bát ở cái thau nhôm. Vội vàng anh ăn nhanh, xong đứng lên mang dĩa ra trả cho người bán. Bà dì và chị bán hàng cùng tính tiền, sau đó, dì vào nhà lấy một cái dĩa ra mua thêm, dĩa này để phần cho Linh, em kế Lăng và cũng là chị của Loan.

            Bóng nắng theo chị bán hàng đi khuất ra cổng. Thụy hỏi Loan:

-Lúc nào em tựu trường ?

-Đầu tháng chín.

-Cũng gần đến rồi, hai tuần lễ nữa thôi.

-Mỗi năm anh đều về nghỉ phép.

            Cô gái nhìn Thụy khi hỏi. Lòng Thụy cảm thấy có được sự an ủi trên cặp mắt cô và còn nghe rõ một giọng nói thân tình. Vậy mà, anh cứ băn khoăn tìm lời giải thích cho cô hiểu về tình cảnh người lính không dễ sống yên bình, phẳng lặng như cuộc đời người công chức.

-Anh về phép lần này là lần đầu kể từ khi vào lính, Thụy nói.

            Cô gái tên  Liên An. Thụy nhìn tên cô thêu trên áo, và đọc trong cặp mắt cô một điều thầm lặng.

            Loan  quay lưng rút một cuốn sách ở kệ. Cô đem cuốn sách để lên bàn và mở ra trang đầu. Bỗng nhiên cô ngừng đọc hỏi:

-Anh Nguyên đi đâu không thấy ghé.

-Anh còn ở đơn vị.

            Loan ngả người dựa lưng ghế, cười nói:

-Không chắc đâu. Anh đi Đà Nẵng thăm chị Nga rồi.

-Sao Loan biết ?

-Cả nhà, đều biết.

-Loan  gặp chị ấy rồi.

-Chị Nga  thân với em lắm.

            Thụy ngẩn người, lạ lùng. Liên An nhìn qua anh. Buổi chiều, có chuyến xe lửa về đến ga.

-Ngày mai anh đi buổi sáng, hay chiều ?

-Buổi sáng. Sài Gòn lúc này đang bắt đầu mùa mưa.

            Sau điều vừa nghĩ, bỗng dưng Thụy có cảm giác bàn tay cô gái đặt lên vai mình. Hai người nhìn nhau, đôi mắt cô gái hết sức ngại ngùng.

            Và rồi, buổi chiều xuống nhanh. Cô gái đứng lên kiếu từ, trên tay cầm hai cuốn vở và một tập giấy. Thụy cũng muốn về nhà, rồi cùng cô gái đi ra phía cổng.

            Giọng thân tình, cô gái nói:

-Em mong sang năm anh về phép.

-Anh cũng mong như em.

            Hai người đi bộ trên con đường ven sông. Dừng bước lại, Thụy hỏi:

-Nhà Liên An gần đây không ?

-Dạ gần.

-Bên kia cầu ?

-Em ở phía trên nhà ga .

-Em thích về một mình hay muốn có anh theo.

-Anh tiễn em một đoạn qua cầu thôi.

-Anh cùng đi với em.

            Trong câu chuyện, cô gái cho Thụy biết qua về gia đình cô. Và, cùng với sự thân tình ấy, cô nói về mẹ anh, các em của anh, và rất là thích thú khi cô tả qua cho anh nghe về nàng Thiên Nga. Thụy hỏi:

-Em thấy anh Nguyên ra sao ?

-Anh ấy rất đẹp .

-Còn nàng Thiên Nga?

-Em chưa tìm ra được ai để so sánh với nàng.

-Phương đã vẽ hình ảnh  Thiên Nga và kể hết chuyện cho anh nghe. Ở thành phố này, vẻ đẹp của áo trắng rất là thuần khiết.

-Anh thích em mặc áo trắng không ?

-Anh rất mong, mỗi cô thiếu nữ, ai cũng đều có riêng cho mình một màu áo yêu thương.

-Anh thật có tâm hồn đa cảm.

-Anh rất vui được nghe tiếng nói của em.

-Anh có mong gặp lại em không ?

-Anh đang đi bên em. Những ngày tới đây, anh xa khỏi thành phố này. Áo trắng, tên Liên An của em, tên Thiên Nga người con gái xứ Quảng chúng ta vừa nhắc đến là kỷ niệm thật đẹp mà Huế đã cho anh một sự rung động đầy mối hoài cảm trong ngày về.

-Em có cảm tưởng, anh luôn đi xa, nhưng lúc nào cũng mãi nhớ thương ngày tháng cũ.

-Em nói được những ý tưởng của anh. Những ý tưởng ấy nhắc anh nhớ đến một bài hát rất quen thuộc.

-Anh hát đi.

-Anh không biết hát.

            Sau vài giây, Thụy bỗng nói:

-Anh nhớ được một đôi câu ... nhà tôi bên chiếc cầu soi nước, em vắng tôi một chiều...

            Bóng nắng chiếu nghiêng nghiêng, dòng sông không lớn nhưng nó tạo ra được cái dáng vẻ đẹp riêng cho thành phố. Hình ảnh chiếc cầu sáng trắng màu vôi, theo ánh nắng, bóng hai người đi qua con sông , bỗng nhiên nghe tiếng động cơ nổ dội lên vang thật xa. Và lúc đó, một chiếc thuyền máy xuất hiện lênh đênh trên sóng nước, khi ra khỏi dòng sông nhỏ này chiếc thuyền sẽ gặp dòng sông lớn.

            Nơi đây, trở lại sự  yên bình. Nhà ở hai bên nằm ven theo bờ sông, mỗi căn nhà đều  có khoảnh sân ở phía trước và căn vườn nhỏ sau lưng.

            Bỗng nhiên Liên An dừng bước lại, cô nói với Thụy:

-Đã đi qua hết cây cầu, anh có nhớ lời em nói không ?

-Nhớ chứ. Nhưng sao em không nghĩ anh muốn tiễn em lên nhà ga để đợi một chuyến tàu.

-Anh muốn em làm kẻ lữ hành đơn độc.

-Hãy cùng anh đến đó.

            Thụy nói với cô gái vừa  hình dung về khung cảnh nhà ga, trong buổi chiều muộn màng biết bao nhiêu hành khách mong đợi có chuyến tàu đến, riêng một mình cô gái đứng lẻ loi bên cạnh tháp nước, đôi mắt đăm đăm nhìn về ngôi nhà trống bỏ hoang. Hình ảnh Liên An áo trắng, tấm lòng buổi chiều nhớ hương gió mà nỗi buồn dờn dợn một màu quê.

-Anh có ra thăm Quảng Trị không ?

-Có, anh về được ít ngày. Thời trước, nhà anh ở ngay ga Quảng trị. Nhà ở, nhìn sang bên kia con đường ray thấy bóng cái tháp nước.

-Em có linh cảm, anh hay đi xa nhà, nhưng luôn ước mong có được ngày trở về.

-Có được ngày trở về là cả sự bao dung.

            Nhà ga yên lặng, trống vắng. Hai người đã dừng bước, họ đứng bên nhau nhìn qua bãi đất trống. Bên cạnh hàng rào kẽm gai có một hồ nước. Căn nhà lợp mái tôn, sân trước rộng, ở đằng sau, có một con đường nhỏ dẫn ra tới bến đò.

-Em ở căn nhà đó đã mười năm.

-Ngày anh mong gặp lại em, thời gian có đổi khác đi nhiều không ?

-Không, em không biết.

            Thụy cầm bàn tay Liên An, rồi nói:

-Ngày mai anh không chỉ xa thành phố này thôi, mà còn xa thêm em nữa.

-Em cám ơn anh.

-Anh cám ơn em cho anh ngày gặp gỡ.

-Em về một mình, nghe.

-Em về một mình.

            Liên An bước đi không ngoái đầu nhìn lại. Thụy bỗng nghĩ, mình mới là người lữ khách đang trông đợi một chuyến tàu .

           

 

 

 

                                                                 II

 

 

 

            Lúc nghe tiếng động rất khẽ của chiếc ghế, người mẹ thức giấc. Giọng bình thường, bà hỏi:

-Đi sớm vậy con ?

            Thụy không đáp lời, anh chợt ngửi mùi vị sương muối từ ngoài vườn tan vào, rồi lặng yên ngồi xuống bên giường mẹ. Trên chiếc gối, mái tóc đã bạc của mẹ anh xõa rộng, lúc này, anh vẫn không biết mình muốn nói điều gì.

-Sang năm, con về thăm nhà ?

-Dạ, chưa biết.

-Sao con không xin về ngoài này cho gần nhà ?

            Thụy nắm lấy bàn tay của mẹ. Vừa đủ để cho mẹ nghe tiếng, Thụy nói:

-Ở trong đó con có điều kiện tìm kiếm thêm việc làm.

-Con ở nhà thuê ?

-Không, ở trại lính.    

-Thằng Nguyên có đem cô bạn gái về.

-Con biết.

-Con đã gặp chưa ?

-Dạ chưa.

-Cô Nga dễ thương lắm, ở Đà Nẵng.

-Dạ.

-Với con, thì sao . Đã quen ai chưa ?

-Chưa.

-Ba mẹ rất mong các con có gia đình.

-Nhưng vẫn còn lâu, mẹ ạ.

            Trong bóng tối, tiếng chuyện trò vẫn gây một cảm giác xa vắng lẫn vào trong  sương muối.  Thụy chợt nghĩ đến người cha. Hình như trong đời mình, ba anh luôn sống xa gia đình nhưng mỗi khi có được dịp trở về, lòng ông thấy rất vui, rồi bao nhiêu hạnh phúc của mình lại chỉ muốn được để dành hết cho người vợ.

-Thôi, mẹ nằm nghỉ đi.

            Thụy nhấc bổng chiếc ghế đem cất. Với túi xách nhỏ trên tay cùng vai đeo ba lô, anh bước ra ngoài rồi cẩn thận đóng cánh cửa.

            Có tiếng Phương cất lên gọi. Vừa mới dời bước, Thụy ngoái đầu nhìn  lại rồi vẫy tay tạm biệt cô em gái.

            Nhà gia đình Thụy thuê ở nằm khuất sau lưng vườn, có lối đi riêng bằng đường nhỏ, và trong lúc trời hẳn còn tối Thụy đi bộ ra phía cổng để gặp con đường chính. Thụy dừng bước ít giây vì  mắt anh bị chói lóa bởi ánh đèn điện hắt xuống. Từ con đường ngang trước mặt, anh lại đi bộ lên phía nhà ga nơi có trạm ngừng xe buýt. Một mình, khí lạnh ban mai làm anh cảm thấy thật dễ chịu. Mùa hè như đã xa, và mùa thu là một nơi nào đó.

            Bên ngoài sân ga, đèn mở sáng suốt đêm. Chỉ có một chiếc xe buýt đậu chờ khách. Khi vượt qua khỏi cây cầu Thụy trông thấy hai quán hàng mở cửa bán cà phê. Đèn trong quán hắt ra một vũng nhỏ, và anh đến vừa  kịp lúc xe sắp chạy.

            Người tài xế dụi tắt điếu thuốc, tiếng máy xe nổ khô khan, rồi nặng nề lăn bánh. Ra khỏi ga, chiếc xe vượt cây cầu nằm trên con đường về trung tâm thành phố. Những hàng cây phượng đẫm ướt  qua sương sớm,  ánh đèn điện cứ lùi dần khi xe đang chạy. Thụy nhìn qua công viên thấy sương mù trên sông, thấy những chấm đèn sáng của mấy con thuyền neo đậu, còn bên xa kia kinh thành vẫn đang mờ tối, chập chùng những cái bóng di chuyển trên bức tường gạch.

            Chỉ hơn mười phút từ nhà ga đến cầu Mới , rồi xe qua phố Trần Hưng Đạo để vào bến chính nằm bên trái khu chợ.

            Xe ngừng, hành khách xuống. Không khí buổi sáng sớm ở bến xe yên lặng, ấm áp. Những người đạp xích lô đang chuyện trò, mấy người buôn bán còn đứng bên cạnh những gánh hàng để chờ xe đổi chuyến. Quán cà phê mở cửa sớm, trong quán, đông khách ngồi. Thụy ghé vào quán, ngồi bàn trống ở ngoài gọi một ly cà phê và thêm chiếc  bánh pâté chaud. Cà phê đã pha sẵn, rất nóng, Thụy uống một hớp nhỏ rồi đốt điếu thuốc. Thụy sẽ ăn chiếc bánh, và uống cà phê sau khi hút xong điếu thuốc. Buổi sáng sớm, trời thấm lạnh, lúc này sắp sang thu. Mùa hè mong muốn đi xa, còn lại thành phố này, bóng dáng con tàu, những chiếc ghế trống và người lính đang ngồi đây với bao nỗi niềm riêng của mình, Thụy chợt nghĩ đến hai hình ảnh thiếu nữ, một cô gái nhỏ bé áo trắng, và một cô mang hình bóng áo tím như đang lớn dậy giữa cuộc đời, hai hình ảnh đó anh có thể mang theo với sự trìu mến ân cần, hay tốt hơn, hãy nên cứ gởi lại cho thành phố để nhớ ngày về.

-Con đã quen ai chưa ?

-Dạ chưa.

            Ly cà phê đậm bỗng làm Thụy nhớ đến  Huê. Chiều hôm ấy trời đổ xuống trận mưa lớn. Căn phòng ở tầng lầu hai bật đèn sáng. Trên chiếu bạc, mọi người hồi hộp theo dõi cô Huệ làm cái đang bắt bài. Rút cây thứ tư, cô nhẩm  cộng số nút trên từng lá, ra vẻ ngập ngừng, suy nghĩ. Lành cười nói:

-Còn bài non đó cô Thi.

              Cô Huệ không đáp lời mà chỉ nhìn qua mỗi tụ bài của các nhà con đang để úp. Trong lúc chờ , Thụy đếm tiền sắp lại ngay ngắn. Trời mưa lớn, anh nghe tiếng mưa và cứ tưởng mình đang ngóng đợi, trông chờ ai.

-Nhà nào bù, bỏ ra.

               Cô Huệ đã rút thêm cây bài nữa mà Thụy chẳng hay. Huê reo lên:

-Em hên quá.

                Rồi tiếp theo là Lành nở nụ cười mãn nguyện. Cô Huệ bắt lá 6 chót, dư một nút, nếu là 5 hay 4 là cô ngũ linh, ăn toàn làng. Từ trái sang phải, theo thứ tự, cô Huệ lật bài xem xét lại và chung tiền. Bài của Thụy hai con tây, quá chắc ăn. Từ trưa đến giờ anh thật đỏ, trúng luôn nhưng vì không đặt lớn  nên ăn không nhiều lắm.

                 Hết cái, cô Huệ đưa bộ bài qua cho anh Thái. Với bàn tay mau lẹ anh Thái xóc bài, rồi chẻ bài, trước khi mở hội đã lên tiếng :

-Cho đặt líp.

                 Thụy nghỉ chơi, đứng dậy nhường cho Phụng vào chiếu. Ra lối cầu thang, Thụy bước nhanh chân xuống nhà. Nhà dưới vắng lặng, mọi người đang ở trên lầu chơi bài thành hai hội, một hội xì dách, một hội tứ sắc. Ở hội tứ sắc , người lớn chơi và luôn có tay dì Hồng mẹ của Thúy. Thúy cũng đang ngồi bên chiếu bạc, say mê.

                 Thụy đi xuống bếp, mở chạn tủ lấy gói cà phê và chiếc phin ra. Thụy cho cà phê vào phin vừa đúng hai muỗng đầy. Xong, Thụy để phin lên  cái ly nhỏ rồi xách chiếc ấm ra bể lấy nước. Thụy đổ nước đầy ấm, đem vào đặt lên lò , tay sắp  những thanh củi gác chồng lên nhau xong bật diêm mồi que đóm cho lèn vào dưới lớp củi. Đóm bằng gỗ thông có chất dầu nên mau bắt lửa, cháy bùng thật nhanh.

                 Gian bếp nằm riêng biệt, không rộng nhưng ngăn nắp. Trên cái bàn gỗ cũ kỹ, phía đầu để một rổ chén bát, và ngay bên trên là ống tròn bằng nhôm móc vào sợi thép cứng để bỏ đũa. Chiếc bàn dựa sát tường phên với nhà bên cạnh, có ô cửa lưới ăn thông. Vào giờ đứng bếp, hai nhà cùng nấu nướng, vừa chuyện trò với nhau. Nhà dì  Hồng và cô Tư rất thân thiện. Bên cô Tư đông con cái đến mười người. Cô chỉ có hai cậu con trai, còn tất cả là gái, từ mấy chị lớn đến các cô nhỏ người nào cũng thùy mị, dễ mến trong cách trò chuyện hay vui đùa. Cô Tư ở nhà nội trợ, còn thầy đang làm Hiệu trưởng trường tiểu học Cầu Kho.

            Thụy đứng cạnh bếp lò nhìn những ngọn lửa cháy sáng đều. Trời mưa lớn, bỗng anh thích thú với ý nghĩ mình sẽ được thưởng thức một ly cà phê thơm, vừa đậm ngon. Mọi thứ, đều đã có sẵn.  Thụy để tay lên túi áo sờ nhẹ gói thuốc, thấy nó còn đầy. Chút nữa, pha xong cà phê, anh uống một ngụm cho ngon miệng rồi sẽ đốt điếu thuốc.

            Bất giác Thụy mỉm cười một mình, liền ngay đó  Huê xuất hiện. Thụy hỏi:

-Sao em nghỉ, không chơi nữa ?

-Em thua, hết tiền rồi.

-Có cần, anh cho mượn.

-Không, em cũng không thích ngồi lâu.

            Thụy ngước mắt nhìn khuôn mặt Huê. Thụy thấy cái dáng vẻ Huê đúng là một thiếu nữ đẹp. Huê mặc bộ quần áo thường có chấm bông đỏ, khuôn mặt trái soan rất hợp với mái tóc cắt ngắn. Và nét đẹp của Huê rất là Tây phương. Thúy, con dì  Hồng  cũng dịu dàng nhưng không đẹp bằng Huê. Trong ngõ hẻm từ dãy nhà đầu đến cuối rất đông các cô gái còn đi học, nhưng không một cô nào đẹp sánh bằng Huê   cả. Ba mẹ cô gái người Bắc, nhưng mấy anh em đều nói theo tiếng Nam. Huê có hai anh chị học Đại Học. Vào ngày thường, Huê hay mang gạo qua gởi nhà dì Hồng quen gọi là cô Ba để nhờ nấu cơm. Thụy đã để ý đến Huê, và bắt chuyện làm quen sớm hơn ai hết, ngay sau tuần lễ đầu anh đến ở nhà dì Hồng. Huê cũng mến anh, cô rất thường hay qua nhà Thúy và lúc gặp Thụy cô gái chuyện trò rất tự nhiên. Huê học trường Gia Long, cô học khá, là một thiếu nữ rất ghiền xem phim. Thụy cũng mê phim ảnh, các nam nữ tài tử anh đều nhớ hết tên, và những phim kể chuyện tình, lúc xem, anh còn nhớ rõ từng chi tiết. Thế nhưng, Thụy không có được sự kiên nhẫn, chăm chỉ với sách đèn. Thụy đã bỏ học, và rồi đây anh sẽ  xa cách với bao nhiêu kỷ niệm buồn câm nín trong lòng mình.

-Anh đun nước pha cà phê ?

             Chỉ trong ít giây, hình ảnh Huê kéo Thụy  trở về gần gũi bên nàng. Thụy mỉm cười, nói giọng tự  nhiên:

-Trời lạnh, không có gì thú bằng uống cà phê.

-Anh có tâm hồn nghệ sĩ.

-Một chút thôi. Em uống cà phê nghe, uống với anh cho vui.

-Không, em không uống được cà phê.

              Thụy nấu một ấm đầy cho cả nhà dùng luôn nên đứng chờ lâu. Giờ thì nước sôi đã reo, vừa bốc hơi. Cả hai người cùng lặng im để nghe tiếng nước reo, bên ngoài mưa càng lớn.

               Thụy nhấc ấm nước, lửa trong bếp dần tàn ngọn. Huê  bước tới gần nhìn anh pha cà phê. Sau khi rưới cho thấm ướt cà phê một chút, Thụy đổ nước sôi đầy phin, xong đậy nắp. Cà phê rớt xuống chiếc ly trong từng giọt đậm, thật đẹp mắt làm Huê thích thú. Huê đứng ngắm những giọt cà phê chảy, cô chợt nghĩ, nước mưa thì vui như tiếng nói hay tiếng cười, còn từng giọt cà phê là màu đen đậm đặc, nó luôn mang mang  nỗi buồn.

-Em lên chơi bài tiếp đi.

-Bộ anh đãng trí rồi sao ?

-Không. Anh sẽ đưa tiền cho em lên chơi tiếp. Ăn thì mình cưa đôi.

-Còn thua, sao ?

-Thì thôi.

-Thôi, hôm nay em đen lắm. Anh ăn nhiều phải không ?

-Anh được hơn sáu trăm.

-Anh ăn non rồi đứng dậy.

-Anh chơi cho vui thôi. Ít ngày nữa, anh xa Sài Gòn .

-Anh đi đâu vậy ?

               Thụy và Huê bỗng đưa mắt nhìn nhau. Thụy nói, giọng nhỏ đi:

-Ngày mai anh xa em đó, biết không ?

               Huê hỏi:

-Nhưng mà anh đi đâu ?

-Anh đi Nha Trang. Anh vào lính rồi.

-Anh không học nữa sao ?

-Không.

                Thụy đáp, giọng nói khô vừa tan trong tiếng hạt mưa lớn rớt xuống mái tôn. Rồi phút giây ấy lặng im, vừa dửng dưng, mỗi người chợt theo đuổi một ý nghĩ. Thụy vừa thoáng thấy vẻ buồn trên cặp mắt của Huê. Giữa anh và cô gái, không phải hai người có đã có nỗi rung động vì yêu nhau, mà đúng ra, rất mến nhau một cách thân tình như anh em. Lúc nãy chơi bài ở trên lầu Huê ngồi cạnh Thụy , có lúc nàng hơi nghiêng đầu dựa vai Thụy, mắt chăm chú xem những cây bài Thụy bắt lên. Và lúc ấy, Thụy nhìn thấy người em dễ thương lạ.

                 Cà phê ngừng chảy. Thụy nhấc chiếc phin ra khỏi ly, múc mấy muỗng nhỏ đường cho vào cà phê khuấy nhẹ. Cà phê pha xong dậy lên mùi thơm làm Huê thấy thèm, và nàng cũng thấy cái dáng vẻ nghệ sĩ của người con trai qua mái tóc quăn dợn sóng, thật tự nhiên.

                   Thụy cầm ly cà phê đưa mời :

-Em uống thử đi.

                    Rất chậm từng tiếng, Huê đáp:

-Đã bảo, em không uống được mà.

-Em nói giọng Bắc hay lắm.

-Vâng, anh.

                     Hai người nhìn nhau cười. Trời vẫn mưa, mù mịt. Tiếng mưa lớn, nước dội ào ào xuống mái tôn. Thụy bỗng nhớ đến một câu thơ cổ: Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.

                     Trong gian bếp, có mấy chiếc ghế con. Thụy để cà phê lại trên bàn, lấy một chiếc ghế nhỏ đưa cho Huê  cầm rồi hai người dời ra gần chỗ sáng.

-Mưa lớn quá.

-Có mưa, mới giữ được em ngồi đây, Thụy nói.

                      Thụy  uống vài hớp nhỏ, xong châm điếu thuốc. Huê cười trong mắt, nàng nhìn Thụy uống cà phê, hút thuốc tỏ ra thích thú. Thụy  nhắc lại câu nói lúc nãy:

-Có mưa, mới giữ  được em ngồi đây với anh.

-Tại sao anh bỏ học đi lính ?

                      Đôi mắt Thụy bỗng trở nên trơ trọi sau câu nói của Huê. Và, anh bỗng nhớ đến Thúy Hà , người bạn gái ở nơi một thành phố xa xôi.                       

-Tuần rồi, em có đi xem phim không ?

-Có. Phim Les jeunes loups, anh coi chưa ?

-Có, phim hay lắm.

-Em lặng người đi lúc nghe tiếng kèn thật não nuột.

-Em thật giàu cảm xúc.

-Còn anh, lúc nào cũng ra vẻ nghệ sĩ.

-Anh cũng có một vài điểm giống em.

                       Thụy nói xong, Huê không giãi bày gì cả. Cơn mưa bị chiều gió thổi tạt, một giọt mưa lớn rớt xuống vai áo của Huê. Thụy bỗng cầm lấy tay Huê lúc cô gái đứng dậy dịch chỗ ngồi tránh mưa. Rồi Thụy buông tay  ra lúc Huê ngồi xuống. Nhìn gương mặt đẹp của cô gái, Thụy nói:

-Anh có một người bạn gái rất thân.

                          Huê hỏi:

-Anh sẽ đi xa bao lâu ?

-Chừng ba tháng.

-Rồi anh trở về lại đây.

-Chưa biết nữa, nhưng anh rất mong về. Anh rất nhớ Sài Gòn, anh nghĩ đây là thành phố tuổi trẻ của mình.

- Anh sẽ làm phi công ?

-Không, anh đi chuyên viên. Có thể sau này anh trở thành thợ máy.

-Làm thợ máy cho phi cơ ?

-Khi nào phi cơ hư hỏng, trở ngại đem vào ụ thì chuyên viên coi sóc sửa chữa. Giống như xe hư, mình sửa vậy.

               Thụy  giải thích cho Huê bằng những điều nghe được trong những ngày qua khi anh làm đơn tình nguyện vào Không quân, và những ngày đi khám sức khoẻ anh hay chuyện trò với những người lính cũ, họ đã cho anh biết một số ngành nghề trong binh chủng này.

                Huê hẳn còn là một cô gái học sinh. Nàng chưa quen ai cả, và nàng cũng đã biết anh để ý tới nàng ngay từ những ngày đầu mới gặp.

-Anh học ở quân trường nào ?

-Nha Trang .  Em đến thành phố đó chưa ?

-Chưa.

-Em có thích những thành phố ở miền biển ?

-Rất thích. Nhưng tại sao anh không làm phi công ?

                 Thụy bỗng nhìn lâu vào mắt Huê. Anh thấy Huê đúng là hình ảnh của cô Phượng trong tiểu thuyết Đời Phi Công của nhà văn Toàn Phong. Thụy đã đọc cuốn đó một đôi lần, anh thật mến yêu cô Phượng là hình ảnh đẹp trong văn chương đem ra giới thiệu với người đời. Và rồi, anh  cũng nghĩ mình chọn binh chủng Không Quân vì yêu cuốn sách, vì bóng hình cô gái đó. Giờ đây, Huê chính là cô Phượng đang ngồi trước mặt anh. Nàng thật là giống, giống lắm, với mái tóc cắt ngắn bao quanh gương mặt đầy đặn, với nỗi buồn quá nhẹ chỉ để làm đẹp cặp mắt khi nàng cảm thấy vui, hạnh phúc. Nhưng thật buồn thay, anh không phải là phi công. Thụy nói thầm với  Huê , anh không phải là thế, nhưng anh yêu em.

            Những ngày cuối sắp rời Sài Gòn, giây phút nào nỗi buồn cũng cứ buông trôi , chấp chới trong cõi lòng khiến Thụy có cảm giác miệng lưỡi cứ đầy ứ những vị chua, vừa đắng. Mỗi ngày, Thụy hầu như ngồi trên các chuyến xe buýt.  Một hôm ấy, Thụy tìm đến Lăng. Vừa thấy bóng Thụy xuất hiện lối hiên ngoài, Lăng vội ngừng viết, gấp sách. Thụy bước vào, với vẻ mặt ủ rũ . Lăng nhìn Thụy lo ngại, định lên tiếng hỏi nhưng  vừa ngồi xuống ghế, Thụy nói ngay.

-Tôi sắp đi Nha Trang.

-Anh đi có việc gì ?

-Tôi nhập ngũ, vào binh chủng Không Quân.

                 Lăng hơi ngạc nhiên, và những ý tưởng Lăng muốn nói bỗng nằm lại trong cặp mắt mình với một nỗi xốn xang, tuy nhiên, nếu có nói ra cũng sẽ không phù hợp với những điều Thụy đang nghĩ. Thụy tiếp lời:

-Tôi đi chuyên viên, lính thường thôi.

-Chừng nào anh đi ?

-Hai ngày nữa.

                 Hai người im lặng. Thụy nhìn vào chồng sách, cầm một cuốn sách Luật xem qua rồi gấp lại. Lăng hỏi:

-Anh không đợi đến hè, thi cử xong đã.

-Thôi, tự nhiên tôi chán chuyện học hành.

-Anh đi, có bạn nào quen không ?

-Có, bạn học ở Đà Nẵng. Bạn thân, nó muốn tôi đi cùng.

                   Lăng không nói gì, nhưng rất hiểu tâm trạng của Thụy. Từ ngày vào Sài Gòn, Thụy sống như một kẻ lạc lõng, chênh vênh không có điểm tựa. Những ngày đầu háo hức trước một thành phố có đời sống xô bồ, sôi nổi, giờ đây đã lắng dịu , buồn bã trong lòng anh. Vào đây, Thụy cố gắng tìm kiếm việc làm, nhưng nó không ổn định.

-Anh đợi thi xong đã.

-Thôi, tôi không thích học nữa.

                  Thụy vẫn muốn giấu, không cho Lăng biết đơn xin hoãn dịch của anh  đã bị từ chối. Buổi chiều thật yên tĩnh. Lăng xếp sách vở cho vào kệ xong thay quần áo, mở hòm rương lấy ít tiền bỏ túi rủ Thụy đi chơi.

                     Hai người rời nhà đi ra trạm xe buýt. Vừa đi, Thụy bắt đầu câu chuyện nói với Lăng. Bằng một giọng cố gắng giữ niềm tự tin, Thụy nói cho Lăng biết anh đã làm đơn xin nhập Không Quân từ một tháng nay.  Mỗi ngày, Thụy đều có mặt ở Bộ Tư Lệnh Không Quân để bổ túc hồ sơ và khám sức khoẻ. Kết quả, anh đủ điều kiện để theo học khoá chuyên viên. Bên Không Quân khác với Bộ Binh, nói là đi lính, nhưng sau mấy tháng học căn bản quân sự không phải ra ngoài chiến trận mà sau đó, được theo học ngành nghề, những ngành như không lưu, kiểm báo, hoặc cơ khí , rất dễ có cơ hội được gởi đi nước ngoài học thêm về chuyên môn.

                Lúc Thụy ngừng nói, Lăng hỏi:

-Anh đi học chừng bao lâu ?

-Ba tháng.

-Rồi trở về Sài Gòn.

-Không biết nữa, ra khỏi quân trường là đi đơn vị.

-Mình có chắc được đi học ngành không ?

-Ở đơn vị một thời gian, sau đó họ sẽ cho đi học.

                 Hai người đứng chờ bên trạm xe buýt. Không biết nói với nhau gì thêm, Thụy nhìn ra con đường, lúc này trên gương mặt anh không giấu được cái vẻ còn ngơ ngác của mình. Chuyến xe buýt tới trạm ngừng.  Xe đông khách, Thụy và Lăng  đứng ở cạnh lối cửa lên xuống. Và, chuyến xe chạy đi ngay sau ít phút ngừng, rồi cứ ghé vào mỗi trạm là thả khách xuống rồi đón khách lên.

                 Xe vào bến chính ở trước chợ Bến Thành trong cảnh tượng buổi chiều thật huyên náo giữa đô thị. Xuống xe, Thụy hỏi Lăng:

-Mình đi đâu ?

-Đi lòng vòng chơi phố một lúc.

                 Thụy bước theo Lăng, trong đầu óc đôi lúc còn nghĩ vẩn vơ. Ngang qua những tiệm tạp hoá, hiệu sách và các quán dọc vỉa hè, Thụy và Lăng chỉ đưa mắt nhìn thoáng. Bất chợt Lăng hỏi:

-Anh cần mua gì không ?

-Không.

-Anh cứ mua đi, có tiền đây .

-Thôi, chẳng có gì cần mang theo.

                 Thụy và Lăng cứ đi dọc theo vỉa hè phố Lê Lợi mắt lướt nhìn, và trong ý nghĩ như cố gắng gợi nhớ ra một chuyện gì quan trọng. Thụy tự dưng thấy mình xúc động trước hình ảnh một ngày cuối ở Sài Gòn. Thụy nhìn quang cảnh phố có cảm giác xa lạ hơn bao giờ cả, và dù cho anh đã vào đây ở được sáu tháng, nhưng anh vẫn không thể coi đây là thành phố thân thuộc với mình.

                 Không mua sắm gì, hai người ghé vào quán Mai Hương ngồi nghỉ chân uống nước, sau đó, sẽ đến rạp hát Lê Lợi xem nếu có phim hay thì vào coi, không cả hai xuống nhà dì Hồng.

                 Rạp Lê Lợi luôn chiếu thường trực, có nhiều phim hay và giá vé rất rẻ. Thụy thường xem phim ở rạp Lê Lợi. Chỉ cần có 10 đồng trong túi là mua được một ly trái cây xay, một lát bánh mì nướng và một vé xem phim thường trực.

                  Rạp đang chiếu phim The Sun Also Rises. Trong lúc Lăng đến quầy mua vé, Thụy ghé vào quán nước mua bánh mì và nước giải khát mang vào rạp để vừa xem vừa ăn.

                  Xuất hát trước vãn, giờ đang đón khách cho xuất hát mới. Dòng người theo nhau tiến vào cửa. Aùnh đèn và hơi mát của máy lạnh làm cho Thụy cảm thấy dễ chịu khi bước vào trong rạp. Hai người ngồi ở bên bìa hàng ghế giữa. Lúc này, đang giờ nghỉ, phim chưa chiếu nhưng có phần nhạc đệm cho khán giả vừa nghe vừa giải lao.

-Đến hè, Lăng có về Huế không ?

-Về, nhưng cũng đợi kết quả thi xong mới về.

            Bỗng dưng trong lòng Thụy khơi dậy một niềm bâng khuâng. Và anh đã nhớ ra từ ngày ấy, về lại hôm nay, vào những phút giây sắp lên đường Thụy có cảm tưởng đời anh luôn là một kẻ cứ trông ngóng, đợi chờ .

            Trên con sông, những lớp sương mù mỏng tan dần. Thụy chỉ ngồi ở quán cà phê chừng hai mươi  phút. Khi đứng dậy, anh đeo vai ba lô, tay cầm túi xách đến quầy trả tiền và mua thêm một gói thuốc bọc đi đường. Hàng xe buýt đậu gần nhau đối diện với quán nước. Một khoảng sân rộng giữa  bến dùng để cho xe ra vào hay trở đầu. Xe đi Phú Bài nằm cuối hết, gần bờ sông. Khi thằng lơ xe dắt Thụy  đến, có thêm vài người khách nữa cùng lên. Xe vẫn đợi khách, chưa tới giờ chạy. Thụy không ngồi dãy ghế trước mà chọn ở đằng sau, gần lối cửa lên xuống. Ở phía sau, cảnh vật cho bạn nhìn thấy rõ và lâu hơn. Khi đặt chiếc ba lô xuống cạnh chân , Thụy cảm thấy dễ chịu. Thụy lấy làm vui khi nghĩ đến trưa nay được có mặt ở Sài Gòn. Sài Gòn, thành phố của mùa mưa. Rất có thể buổi chiều khi cơn mưa tới, anh đang ngồi trong rạp hát. Thụy nhớ lại cuốn phim The sun also rises, bóng dáng Thúy Hà , hình ảnh nữ tài tử  Ava Gadner. Và, đến tối, anh tìm đến quán cà phê quen thuộc, nơi ấy, có bóng dáng người thiếu phụ trẻ đẹp với vẻ nghiêm trang,  và trên gương mặt nàng luôn phác họa những nét buồn rất dịu dàng, ngây thơ. Nhưng nếu trời không mưa, bạn sẽ làm gì ?  Thụy đặt cho mình một câu hỏi, rồi tự nghĩ nếu Sài Gòn không mưa, thì lúc anh về tới, trời đã quá trưa, hoặc bắt đầu vào buổi chiều với không khí dịu mát, tươi vui, nhiều sắc màu của nắng và của những tà áo tung bay trên đường phố, chừng đó, cũng đủ gây cho anh niềm vui ngày trở lại Sài Gòn, với  buổi chiều lang thang trên vỉa hè dọc theo các dãy phố buôn bán sách báo cũ. Anh cũng cầu mong gặp Huê , giữa anh và nàng luôn hòa hợp nhau trong một tâm hồn rất mến yêu văn nghệ và cuộc sống.

             Từ  băng ghế sau nhìn qua con sông, Thụy trông thấy cây cầu và dãy phố bên kia với những mái nhà im vắng và những hàng cây cao, rất thẳng đều. Thụy nhận ra Huế trong lúc này, nó không thay đổi gì nhiều đối với người lính từ nơi xa mới trở về.  Nhưng có Huế ,  thì anh  có thể nói ra được với bạn bè  về những ngày khó khăn đầu tiên của tuổi trẻ. Từ ngày đó, anh  luôn cảm thấy mình đơn độc, sự dừng bước một nơi chốn chẳng bao giờ lâu.

-Ủa, đi đâu đây ?

            Thụy giật mình, nhận ra Hạnh. Ánh lửa que diêm sáng lên khi Thụy đang đốt điếu thuốc.

-Tao mới về nghỉ phép.

            Thụy đưa gói thuốc cho Hạnh.

-Mầy còn nhớ tao không ?

-Nhớ chứ. Hạnh, B1.

-Đúng rồi.

            Hạnh mặc đồ lính mới toanh, cũng mang ba lô túi xách như Thụy. Hạnh ngồi xuống bên cạnh , châm xong điếu thuốc Thụy mời,  hắn hỏi:

-Mày đi đâu ?

-Về lại Sài Gòn .

-Đơn vị ở trong đó ?

-Ờ, Thụy đáp.

            Hạnh nhìn qua Thụy trong vài giây.  

-Sao không đeo lon lá gì cả ?

-Lính thường thôi, không được Sĩ quan như bạn đâu.

            Hạnh chỉ cười, và Thụy thấy cặp lon Hạnh đeo sáng lên.

-Mầy làm việc ở Tổng Tham Mưu ?

-Không, ở căn cứ Tân Sơn Nhất.

-Không quân.

-Đúng.

-Mẹ, anh chọn đi lính cậu để phè phỡn.

-Vậy thôi, còn bạn chừng nào lên Thiếu úy.

-Sáu tháng nữa.

-Đơn vị đóng ở đâu ?

-Pleiku.

-Quân đoàn II.

-Đúng.

-Piston của bạn cũng mạnh lắm.

-Ông anh tao làm Phòng 4 Quân đoàn.

-Băng của tướng Toàn.

-Sao mày hay vậy ?

-Tao là lính, nhưng dân nhà báo.

            Hạnh cười lớn, bàn tay nắm vai Thụy.

            Xe rời bến lúc nào không hay. Hai đứa cùng ngừng câu chuyện trông ra đường. Trên phố chính Trần Hưng Đạo xe còn chạy chậm, để rồi trong ý nghĩ riêng mình, mỗi hình ảnh người lính trở về phép là để ấp ủ lấy một vài bóng dáng người thân, sau đó là tâm trạng sắp sửa rời thành phố đi đến nơi xa. Nơi nào xa, người lính cũng nghĩ mình sẽ đối diện với chiến tranh.

            Xe chạy nhanh khi ra khỏi thành phố. Thụy và Hạnh trở lại câu chuyện, và cũng có lúc ngừng, như thể phút giây ấy là sự ràng buộc, mơ hồ vừa thân thiết. Trên quốc lộ, gió thổi lướt qua cánh đồng tìm đến các ngôi làng, cảnh ruộng vườn, nhà ở, ánh đèn trong sự chuyển động xôn xao và sẽ trở nên bình yên khi trời sáng. Có tiếng súng nổ lẻ tẻ, và Thụy chợt trông thấy vài bóng dáng người băng qua núi.

            Thụy hỏi Hạnh:

-Về nghỉ phép được bao lâu ?

-Mười ngày.

            Thụy nhớ lại rõ những tháng năm của thời niên thiếu, trong số bạn học, có Hạnh. Hạnh cũng đã đi lính, nhưng không thay đổi nhiều, vóc dáng vẫn nhỏ bé, giọng nói chậm rãi, thân tình.

            Trời rạng sáng và có mưa. Xe buýt không vào phi trường, đậu ngoài đường lộ và chỉ có mình Thụy và Hạnh xuống xe. Khi hai người lính đã xuống, xe chạy tiếp. Trời mưa nhẹ hạt. Từ đường ngoài vào trạm tiếp liên gần 200 mét, hai người lính bước đi nhanh. Vừa lo mưa nặng hạt, nhưng trong mắt, trong lòng anh nào cũng thấy vui, vừa thích làm dáng.

-Ở Không quân, mầy cấp bậc gì ?

-Lính trơn.

-Vậy thôi .

-Ờ, yên thân ở thành phố. Nhưng rồi cũng đi học chuyên môn.

-Mầy cũng phải xin học khóa chuyên môn.

-Đang chờ.

            Hai người dừng lại ngoài mái hiên lấy khăn lau mặt. Bên trong, đã có một số hành khách chờ chuyến bay. Kim đồng hồ trên tường mới 7 giờ kém 10. Sau khi coi lại bảng phi trình, Thụy hỏi Hạnh:

-Mầy ăn uống gì chưa ?

-Chưa.

-Còn sớm, qua quán cà phê ngồi.

            Tự nhiên, Thụy  cảm thấy mình lớn hơn Hạnh, và trong tình bạn hai đứa rất muốn nói với nhau một đôi điều để có sự che chở. Thụy và Hạnh cùng ngồi xuống chiếc bàn ngoài. Quán cũng đông khách, có tiếng trò chuyện của lính tráng , nhưng không ai làm ồn. Cà phê, khói thuốc lan tỏa.

            Hạnh kêu hủ tiếu và cà phê sữa. Thụy không ăn sáng, chỉ uống cà phê, và anh vẫn thích cà phê đen bỏ chút bơ hơn là dùng với sữa.

            Năm học đó, hai bạn cùng đậu vào Đệâ Thất trường Nguyễn Hoàng. Mấy tháng đầu còn học ở trường nhà tranh gần bến Hộ, đến trước Tết Nguyên Đán chừng một tuần học sinh dọn về trường mới nằm ở sân vận động. Nơi đây, trường ốc, sân chơi rộng rãi, và học sinh có một ngày vui liên hoan tại lớp với các thầy cô trước khi được nghỉ mười ngày về ăn Tết với gia đình.

            Đứa bé gái bưng chiếc khay ra đặt xuống bàn thấp. Tô hủ tiếu và ly cà phê sữa cho Hạnh. Ly cà phê của Thụy đen đậm, anh cầm thìa nhỏ  lấy đường trong hủ cho thêm vào xong khuấy nhẹ.

            Thụy uống cà phê, nhìn Hạnh đang ăn. Ở ngoài sân, những đám bụi mưa bay trong gió sớm, mang cái vẻ buồn vắng rất nhẹ nhàng. Bỗng Hạnh hỏi:

-Mầy lên Pleiku bao giờ chưa ?

-Chưa.

-Đó là thành phố của lính.

-Đất của Pleiku màu đỏ.

            Thụy thấy người bạn ăn ngon.  Trên gương mặt còn thư sinh, hắn cũng là thứ lính cậu, an nhàn như Thụy, hai đứa chẳng có gì hơn nhau ngoài cái lon đeo trên ve áo, nhưng với Hạnh  tương lai có được sự đợi chờ. Ngày ra quân trường đi đơn vị, Thụy may mắn được ở Sài Gòn, đây là thành phố anh dễ tìm kiếm thêm việc làm bằng nghề viết báo, vừa được vui thích, tự do.

            Thụy cười nhìn bạn cũ, hỏi:

-Sao ?, vợ con hay có bồ em nào chưa ?

-Chưa, nhưng mầy yên chí.

-Em, Pleiku.

-Ờ, một em làm cô giáo.

            Hạnh tiếp tục ăn. Một lúc hắn hỏi:

-Có coi phim The quiet American không ?

-Có.

            Thụy được coi phim này ở rạp Châu Tinh ngay trong tuần nghỉ phép đầu tiên.        Hạnh lấy trong túi ba lô cuốn truyện bản tiếng Anh. Thụy cầm cuốn sách lật xem qua vài trang, nói:

-Tao có đọc rồi, đọc qua bản dịch.

-Còn phim, mấy thấy sao ?

-Xem cũng được, không hay bằng truyện.

            Trong lúc Hạnh còn ăn, Thụy nhớ nghĩ đến Phượng. Phượng rất là thân thiết với tác giả, với Sài Gòn và có anh nữa. Anh yêu thích nhân vật Phượng. Anh thấy nàng đẹp khi xõa rộng mái tóc xuống vai áo. Và thuở ấy, thành phố này được gói ghém sự yêu thương trong lời đề tặng ở trang đầu của tác giả. Graham Green là một nhà văn người Anh, ông đã có thời gian sống lâu ở Việt Nam trong cuộc chiến tranh Pháp-Việt Minh. Nhà văn Jules Roy viết cuốn trận Điện Biên Phủ có nhắc đến tên ông. Và, trong cuốn sách ấy, hai người được nói đến nhiều nhất là tướng Navarre và tướng Võ nguyên Giáp.

            Ăn xong, Hạnh cầm ly cà phê sữa đưa lên miệng uống. Hắn uống nhanh, cảm thấy thỏa mãn sau bữa ăn sáng no bụng. Tô hủ tiếu hắn gọi là tô lớn. Thụy hẳn còn ít cà phê chưa uống hết. Thụy uống chậm và đã đốt liền mấy điếu thuốc trong lúc Hạnh ăn , vừa chuyện trò. Hạnh nghe Thụy nói:

-Tao có nhiều truyện dịch hay.

-Mầy nên tìm nguyên tác mà đọc.

-Ngoại ngữ tao không khá.

-Mầy cứ đọc bừa, tự nó vỡ ra.

-Đọc truyện Anh, Pháp phải có nhiều ngữ vựng.

-Nhưng chịu khó đọc, cứ đọc đi, rồi nghĩa các câu chữ sẽ bật ra.

-Mầy xong trên Đại học chưa ?

-Chưa, mới được hai chứng chỉ.

-Bên nào.

-Văn khoa. Tao cũng có được một chứng chỉ bên Luật.

-Có tính học tiếp không ?

-Có chứ. Phải cố cho xong.

            Chỉ hai mươi phút ngồi ở quán mà thời gian tưởng như lâu. Khi cả hai đứng lên, vừa lúc có một xe ca chở khách tới và ở văn phòng trạm tiếp liên thông báo giờ các chuyến bay cho hành khách. Hầu hết là lính tráng đi phép, đi công tác, có một số ít thường dân xin quá giang. Tự dưng, Thụy và Hạnh có cảm giác lạc lõng, vì sắp sửa chia tay. Có hai tuần phép, và đây là kỳ nghỉ phép đầu tiên từ ngày Thụy đi lính. Liên An nhỏ bé thân thương, nhìn đôi mắt An, anh nói với cô gái được một đôi điều về đời lính và hình ảnh người lính trong đời anh. Về Huế, thành phố này thật đầy ắp những kỷ niệm. Thụy có hai ngày ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội. Thụy gặp vài người bạn cũ, các bạn anh không bị đi lính, đang dạy học. Khu Morin là khu Đại học, ở khu này có nhiều quán cà phê đông nam nữ sinh viên tụ tập tạo nên không khí văn nghệ thật đặc biệt dành cho lớp trí thức trẻ. Và, mỗi buổi chiều cũng có khá đông lính tráng  đến, họ là lính thành phố và một thời là sinh viên. Thực ra, Thụy rất muốn vào Đà Nẵng để thăm gia đình Thúy Hà nhưng chẳng hiểu sao anh lại không mong mỏi chuyến đi. Và rồi anh nghĩ, khi trở lại Sài Gòn anh sẽ nhận được một hai lá thư của nàng. Hay là, anh đã cảm thấy vương vấn hình ảnh của Thiên Nga vì trong  chuyện về cô gái và anh Nguyên nghe Phương kể thật là vui, rất chân tình .

            Bên kia con đường, người lính trông thấy cánh đồng, phía xa là ngôi làng và bóng núi. Sương mù làm mờ khuất, trời đang mưa nên cảnh vật trở nên hiu quạnh vắng vẻ, nhưng nó cũng đã tạo cho bạn có một vẻ đẹp xa vắng của thời gian. Bỗng nghe có tiếng còi tàu vọng, một lúc sau, đoàn tàu tới gần và chạy ngang qua với tốc độ bình thường. Thụy nhìn đoàn tàu, chỉ thấy có hai toa hành khách. Những toa xe khác nối nhau nhưng cửa đóng kín.   

            Hai người lính chia nhau điếu thuốc, đốt que diêm châm lửa, và bắt tay nhau. Thụy đứng vào hàng đợi nhân viên của trạm hướng dẫn ra cổng. Có bốn chuyến bay sáng nay, mỗi chuyến cách nhau một giờ. Sau chuyến đầu Thụy đi Sài Gòn là tới chuyến  Pleiku của Hạnh.

-Đi nghe Hạnh.

-Ờ, mong gặp lại.

            Hành khách di chuyển. Khi ra ngoài sân bay, họ cùng nhìn thấy một quang cảnh trống trải, hai chiếc phi cơ đậu hai nơi xa cách nhau, và cả đoàn đi theo viên Trung úy hướng dẫn đến chiếc C130 đang chuyển hàng.

            Hành khách dừng lại khi tới gần. Viên Trung úy gặp trưởng phi cơ trình danh sách, một nhóm trong phi hành đoàn đứng dưới cánh bay lớn đang hút thuốc trò chuyện. Viên Đại úy Trưởng phi cơ người tầm thước, mặc đồ bay lam, đội nón lưỡi trai có gắn phù hiệu phi đoàn và ba bông mai.

            Sự tình cờ làm  Thụy chú ý nhìn lên phía trước khi thấy bóng một cô gái xuất hiện với chiếc áo dài trắng. Anh thấy mái tóc dài của cô phủ trên lưng áo. Cô có mái tóc đẹp, nhưng anh chưa trông thấy rõ khuôn mặt cô. Huế-Sàigòn xa cách gần hai giờ bay, và anh nghĩ, cô gái đang học ở Sài Gòn, những ngày tháng qua của mùa hè cô về thăm gia đình. Ngày về phép của những người lính như anh thì ngắn, còn cô gái, những ngày nghỉ được sống với gia đình lâu hơn, luôn luôn được nghe tiếng nói là nguồn vui của hạnh phúc. Nhưng chắc gì sang năm, khi mùa hè tới, cô sẽ rời xa Sài Gòn để về Huế. Thụy chợt vui, nghĩ rằng, mỗi cô gái thường chọn các thành phố thích hợp với thời tiết trong tâm hồn mình. Và riêng anh, cũng có lúc thầm nghĩ cuộc đời như một bài hát.

            Hành khách bước lên phi cơ sau khi hàng hóa quân nhu chuyển xong hết. Không đợi lâu, đèn trong phi cơ bật sáng và rồi tiếng động cơ nổ. Thụy bắt đầu đếm từng khoảnh khắc thời gian khi phi cơ lăn bánh.  Tới đầu phi đạo định hướng, phi cơ dừng, trong một phút chờ đợi , phi công liên lạc với đài kiểm soát không lưu. Khi động cơ rùng lên, thân phi cơ rung chuyển , rồi với vận tốc cất cánh phi cơ lao đi bay lên bầu trời.

            Sau hơn một tiếng mười lăm phút vượt không gian, chuyến bay đưa hành khách tới Sài Gòn. Ngồi bên cửa nhìn xuống  lúc phi cơ hạ thấp cao độ chuẩn bị đáp, dần dần qua bóng những đám mây tản mác, Thụy nhớ lại những bóng hình ngọn núi, sương mù, biển và con đèo Hải Vân bên dưới đôi cánh phi cơ. Và, đó cũng là lúc, anh chợt nghĩ đến Thiên Nga, ước mong gặp nàng. Anh cũng không hiểu sao, với kỳ phép rộng thời gian mà anh không có được ít ngày vào Đà Nẵng thăm gia đình Thúy Hà, để lúc ấy, được gần gũi và nói với nàng những lời yêu thương.

 

                                                           III

 

 

 

            Trung úy Nguyên cùng đội dân sự vụ  và y tế đi Phò Trạch. Ở đó một tuần, đoàn làm công tác khám bệnh, đào giếng, gặt lúa và lợp nhà cho dân. Khi trở lại đơn vị Trung đoàn, cả toán được nghỉ xả hơi ít ngày. Nguyên về thăm nhà , tắm rửa xong anh vội vàng thay quần áo đón xe đò vào Đà Nẵng.

            Tới thành phố giữa buổi chiều, nắng hè đã dịu bớt. Thiên Nga có mặt ở nhà lúc Nguyên tới,  nàng hết sức ngạc nhiên nhưng lòng cũng thấy vui khi gặp chàng. Hai người nhìn nhau có chút ngại ngùng, vừa cảm thông.

            Căn nhà Thiên Nga nằm ở khu phố chính trông ra hai con đường Hùng Vương và Triệu Nữ Vương. Những lần trước, Nguyên được cô gái cho phép chàng theo chuyến xe khách từ Huế vào Đà Nẵng khi cô về thăm nhà, và họ ngồi chuyện trò ở quán nước một giờ khá lâu trước khi chia tay. Có một đôi lần, qua nhắn tin, hai người gặp nhau ở nhà người bạn thân. Luôn luôn, cô gái rất giữ gìn ý tứ.

            Và, đây là lần đầu tiên vì quá nhớ nhung, Nguyên liều lĩnh tìm đến nhà Nga. Với tình yêu, cô gái rất hiểu. Hai người ngồi ở bàn khách nhà dưới chuyện trò, giọng nhỏ nhẹ, thân tình. Nguyên nhìn mái tóc, gương mặt, và nghe tiếng Thiên Nga nói, anh có cảm giác như thời gian là cánh cửa thấp thoáng những hình bóng của anh.

            Sau những phút giây băn khoăn, Nguyên mời Nga đi chơi phố. Không chỉ tiếng nói nhỏ, mà trên gương mặt Nguyên lộ ra hết vẻ bỡ ngỡ khiến Nga không giấu được nụ cười trong cặp mắt nhìn lại anh. Một lúc sau cô đứng dậy, để Nguyên lại một mình. Nguyên thật lo lắng khi nghe tiếng Nga nói chuyện với bà mẹ. Cũng khá lâu, Nga mới trở  ra ngoài và bảo Nguyên ngồi chờ.

            Chỉ nửa tiếng, Nga thay quần áo xong . Phố đông vui ngày cuối tuần, ra khỏi nhà một quãng xa nàng mới để cho Nguyên nắm tay mình. Bên nhau, hai người dạo bước, giọng nói của Thiên Nga rất hồn nhiên và tự tin. Trên đường đi, Nguyên kể cho người yêu về mấy ngày đi công tác vừa qua, và anh tả lại ngôi làng Phượng Liễu  bằng những nét phác họa sống động như làm một bài luận văn.

            Bên kia đồi cát là ranh giới hai tỉnh. Hải Lăng là một quận lỵ ở gần ngay đó, từ quận về quê nội của Nguyên khoảng mười cây số. Quê nội anh ở gần biển và trước khi đến biển con đường xuyên qua một khu nghĩa địa là những đồi cát trắng trải dài trông hình dáng như đàn voi. Biển rất vắng,  rất xanh,  tràn ngập bầy chim bay rộng cả một vùng trời.

            Tiệm giải khát đối diện với rạp hát. Hai người ngồi dưới chiếc dù lớn đặt gần mái hiên. Bên ngoài rạp hát, lảng vảng một hai bóng người còn đứng xem những tấm biển quảng cáo chiếu phim kỳ tới. Lúc này, trong rạp phim đang chiếu, chừng bốn lăm phút nữa mới vãn xuất.

            Nguyên ngoắc tay gọi đứa gái nhỏ đến gần.

-Cà phê đá.

-Nước cam tươi.

            Đứa bé gái bỏ đi ngay vào quầy. Nguyên lặng nhìn Nga với một nụ cười trong đôi mắt. Nàng cũng rất yêu đôi mắt đẹp của Nguyên. Nàng rất thích cái dáng trẻ thơ của anh, và những câu chuyện anh kể về đời lính. Những cô gái trước đây Nguyên quen, anh cũng kể ra cho nàng biết, có những chuyện vui ngộ nghĩnh làm nàng bật cười. Và, sau này, anh tỏ lòng tha thiết nói lời tâm sự, giờ đây chỉ có nàng là hơn hết.

            Nguyên uống cà phê, nhưng không hút thuốc. Anh không biết hút thuốc lá, nhưng cà phê thì phải có. Những năm ở Sài Gòn làm báo, mỗi buổi sáng, Nguyên thường viết bài ở quán cà phê ngay trước mặt tòa soạn. Anh viết nhanh, và cà phê là chất xúc tác gợi nhiều cảm hứng cho anh viết.

            Thỉnh thoảng mắt Nguyên lơ đãng nhìn ra đường ngắm phố và chú ý những người đi qua lại.

            Thiên Nga uống từng ngụm nước, cặp môi mỏng ướt của nàng đẹp như cánh hoa. Nàng rất vui tính, những ngày qua về nghỉ hè nàng cũng biết mình nhớ Nguyên rất nhiều. Nhưng với tâm hồn thiếu nữ, nàng có sự ấp ủ, vừa e thẹn để giữ gìn nỗi nhớ nhung luôn thật dịu mềm như là một thứ tơ lụa.

-Nga định hôm nào ra Huế ?

-Ngày mốt.

-Anh ở đây chờ Nga ra luôn.

-Anh không sợ bị phạt à ?

            Nguyên cười bảo:

-Có Nga , anh chẳng sợ ai cả.

            Nàng cười. Anh tiếp lời:

-Anh được nghỉ phép ít ngày sau chuyến công tác.

-Tối nay, anh ở đâu ?

-Ở nhà người bạn.

            Ánh mắt nàng nhìn qua người yêu có vẻ bối rối, vừa ngại ngùng. Nhưng rồi, lấy một giọng bình thản, Nga nói.     

-Về nhà em mà nghỉ.

-Má có la không ?

-Em sẽ xin phép cho anh.

-Cám ơn em.

-Cám ơn suông thôi sao ?

-Anh bao em một vé ciné được không ?

-Quá đúng ý em.

            Nguyên nắm tay người yêu. Bàn tay cô gái rất mềm mại,  nhan sắc nàng cũng tỏa ra hương thơm làm anh thật sung sướng với tình yêu mình đang có.

-Em có vẽ tranh không ?

-Có, em vẽ được khá nhiều.

            Trong khoảnh khắc này đã làm Nguyên nghĩ nhiều đến cô gái. Anh nghĩ về cô trong năm học tới. Anh nghĩ tới những màu sắc cô yêu thích, những khung vải hình thành bức tranh cô đã vẽ. Cô gái yêu thích hội họa và tài năng của cô sẽ phát triển. Cô là một họa sĩ lãng mạn có tâm hồn thật phong phú, rồi đây những bức tranh sáng tác sẽ làm cô nổi tiếng.

            Hai người nhìn nhau trong sự   yên lặng của niềm cảm thông. Trên bàn, ly nước cam và ly cà phê đã vơi một nửa. Trong màu vàng của ly nước cam, ánh lên âm thanh hay đó là bao nhiêu tiếng nói cô gái đã ghi nhận được từ những tấm ảnh của cô sắp xếp trong cuốn album. Cô gái có một cuốn album nhỏ, trong cuốn này, những tấm ảnh của cô được sắp xếp theo thứ tự thời gian.

            Mỗi lúc, trên đường phố ngang qua rạp hát người đi và xe cộ qua lại rất đông. Mùa hạ sắp hết nhưng trời còn nóng. Và khi nghe gió rung động những cây lá, bạn sẽ có cảm giác ánh nắng cũng bị gió cuốn trôi, bập bềnh, lan rộng ra tới bờ sông. Thành phố nằm bên con sông. Con sông chảy qua bến Cảng rồi theo dòng chính trôi giạt tới biển. Miền Trung đất hẹp rất dài dựa lưng núi Trường Sơn và hướng ra biển Đông. Thành phố này cách xa biển 6 cây số. Có nhiều bãi biển rất đẹp. Ở thành phố này có phi trường lớn, ngoài quân đội Việt Nam Cộng Hòa còn có những đơn vị Đồng Minh Mỹ, Đại Hàn, Tân Tây Lan, Úc. Và, về đêm trong thành phố không khí chiến tranh vẫn có lúc đe dọa.

            Hai người chuyện trò với nhau cho đến lúc bên kia rạp hát đèn sáng lên ở ngoài và xuất hát vừa vãn. Từ cửa chính, khán giả ra đông còn vọng tiếng ồn ào từ những câu chuyện về cuốn phim.

            Nàng cười nhìn chàng, nói:

-Anh phải giữ lời hứa với em.

            Chàng gật đầu, lúc ấy mắt nàng nhìn chàng một cách trìu mến. Chàng còn dáng vẻ thanh tú của một sinh viên. Chàng có đôi mắt đẹp. Nàng cũng rất thích cái dáng điệu ngập ngừng của chàng khi nhìn nàng và muốn nói một câu tỏ tình. Từ  buổi đầu gặp, hai người rất ăn ý với nhau.

            Năm ngoái, nàng trông thấy chàng ở một quán cà phê. Tối hôm đó có buổi trình diễn nhạc của một nhóm sinh viên. Trong đám đông người trẻ  nổi bật một chàng trai mặc đồ lính, dáng vẻ linh động, anh ta đang chuyện trò với các sinh viên thuộc thế hệ cùng lứa ngày xưa. Anh chàng này ham vui chuyện mà không trông thấy cô gái để ý đến mình. Buổi ca nhạc nhiều tiết mục thật sôi động, vui nhộn, hào hứng với nhiều người thay nhau lên bục sân khấu. Có những bản nhạc, mọi người cùng vỗ tay và hát. Trong một lúc bất chợt quay hướng nhìn, chàng trông thấy nàng. Thực sự đó lá phút kỳ diệu, nhớ đời. Chàng đã cảm ngay hình ảnh cô gái ngồi ở phía bên kia với gương mặt dịu hiền và mái tóc xõa rộng thật là quyến rũ. Nhưng chàng không dám nhìn lâu, sau ít giây trầm lắng, thiết tha với nàng, chàng quay trở lại nói chuyện với người bạn bên cạnh.

            Mười hai giờ đêm chương trình nhạc kết thúc, quán cà phê đóng cửa. Khi về đến nhà, cả hai người bỗng hết sức ngạc nhiên gặp nhau ở lối cổng vào. Và, người nào cũng thấy vui, có sự thân tình ngay lúc đó như  thể đã quen từ trước.

-Cô ở đây mà tôi không hề hay.

-Em mới dọn đến tuần trước.

-Vậy à. Nhưng trước đây, thì  ở đâu ?

-Em ở trong thành nội.

-Tôi ở đơn vị ít khi về nhà .

-Em cũng không thấy anh từ hôm dọn đến bây giờ.

            Nguyên nhìn cô gái với đôi mắt thiện cảm, nghĩ cô như là em gái của mình. Cô gái nói:

-Lúc nãy trong buổi nghe nhạc, chỉ có mình anh mặc đồ lính.

-Lạ quá phải không ?

-Ờ, cũng thấy lạ.

            Hai người chợt dừng bước, nửa muốn chia tay, nửa trong ngập ngừng vẫn còn muốn nói thêm một vài chuyện. Trăng sáng bất ngờ. Bên lối cổng vào là con đường đi ra bờ sông. Khi trăng dậy sáng, quang cảnh khu phố ánh lên một màu vàng tuyệt đẹp. Từ chỗ hai người đứng, họ trông thấy chiếc cầu, và cũng trông thấy mặt nước trên dòng sông, tự dưng mỗi người nghe lòng mình có một cảm giác nôn nao kỳ lạ. Nguyên nhìn thấy cô gái đẹp lạ lùng. Và, lúc ấy, cô gái cũng thật là bối rối, vì quá lo sợ lời tỏ tình của chàng sẽ nói với mình. Thế nhưng, nàng cứ chôn chân một chỗ, không thể dời bước nổi.

-Em cho anh biết tên được không ?

            Nàng đáp:

-Em tên Nga.

-Anh tên là Nguyên.

            Họ vẫn còn bên nhau, và lúc này, cùng nghe thấy rõ tiếng nước dòng sông chảy.

-Trăng sáng đẹp quá, phải không Nga?

            Một giọng vui, Nga nói đùa:

-Vâng, nó cũng đẹp như anh đang mơ mộng.

-Tên em cũng có vầng trăng.

-Có phải anh liên tưởng đến một câu trong Kiều.

-Em nói đúng.

            Với nụ cười vừa dịu sáng trên đôi mắt đẹp, bao nhiêu ý tưởng trong đầu chàng, nàng biết hết.

            Rồi một giọng thân tình, nàng hỏi:

-Anh ít khi về nhà lắm phải không ?

-Anh thường ở trên đơn vị.

-Sao anh ít về nhà ?

-Anh sẽ về, đểâ luôn được gặp em. Em đang học ngành nào ?

-Em học trường Mỹ Thuật.

-Hay quá. Hôm nào cho anh xem những bức tranh em vẽ.

-Em mới học năm thứ nhất.

-Anh có nhiều người bạn dạy bên đó.

-Chắc là thân với anh.

-Những năm anh chưa đi lính, những bạn ấy học chung với anh ở trường Văn Khoa.

-Anh học xong rồi.

-Chưa. Anh học dang dở, rồi đi lính.

            Giọng Nguyên nói nghe khô khan. Cô gái nhìn anh, nàng hiểu được lời thành thực của anh khi nói ra điều ấy với nàng. Với sự cảm thông ấy, cả hai người dời gót lúc nào không hay. Bên nhau, cùng đôi mắt và ý nghĩ về cuộc đời, họ theo con đường hướng đến bờ sông.

            Trên chiếc cầu, độc nhất có một bóng người đi xe đạp.        

-Em không có gia đình ngoài này ?

-Gia đình em ở Đà nẵng.

            Trên bờ sông đầy cỏ , những hàng cây trồng rất đều ở bên này cũng như bên kia. Ở cạnh lối đi xuống bến nước có băng ghế đá, hai người ngồi xuống. Đêm bắt đầu trôi giạt khi sương mù giăng trên sông.

-Em thấy lạnh không ?

-Lạnh.

-Ngồi đây một chút rồi mình về.

-Tùy anh.

            Khi Nguyên rời ghế đứng dậy đi tới quầy trả tiền nước, Nga ngồi một mình, nàng vừa nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai người cách đây hơn một năm.

            Trên bàn, chàng để lại tiền lẻ cho người phục vụ nước uống. Hai người đi bộ tới ngã tư, họ dừng chờ đèn dành cho bộ hành. Rồi tay nắm tay, cả hai băng qua đường cùng với nhiều người khác. Từ ngã tư, họ đi ngược trở lại đến rạp hát đối diện với quán nước. Bỗng dưng cô gái hỏi:

-Người em của anh đang ở đâu ?

-Ở Sài Gòn. Nó vừa trở về phép thăm nhà, giờ đi lại rồi.

-Em anh cũng đi lính.

-Ờ, nó đi lính thường thôi, không phải Sĩ quan.

-Sao không phải là Sĩ quan ?

-Nó học hành dang dở, không được hoãn dịch đành đi lính. Tuy nhiên, hắn có được bằng Tú Tài bán, hai năm nay, hắn thi toàn phần, keo nào cũng trượt.

-Người nào học hành dang dở cũng đều thất bại.

-Trên nguyên tắc là như vậy.

-Người em đi lính gì ?

-Không quân.

-Chà, đó là lính hào hoa.

-Văn vẻ vậy thôi, nó cũng rách lắm.

-Ít có tiền tiêu xài.

-Đúng vậy.

-Có viết văn nữa, phải không ?

-Ờ, nó đang tập tễnh viết văn. Cũng có năng khiếu, triển vọng.

-Em có đọc một truyện ngắn.

-Em thấy nó viết được không ?

-Cũng được. Lãng mạn, có triển vọng như anh nhận xét. Lấy bút hiệu Thiên Lan là sao?  Chắc là quen cô nào đó.

-Ờ, nó được quen cô nào là đưa người đó vào truyện.

-Bao nhiêu phần sự thực ?

-Anh chịu.

-Còn anh, đến bao giờ sẽ viết về em ?

-Đã hẳn rồi, một ngày sắp tới.

-Anh phải nhớ đưa em đọc.

            Với sự dừng bước nhẹ nhàng, chàng gởi vào đôi mắt nàng cái nhìn thật trìu mến. Chàng yêu nàng, hạnh phúc trong tình yêu dành hết cho người em gái .

            Rồi, nàng đi theo chàng. Nàng có ý tưởng, từ nay, chàng là điểm tựa của nàng. Tới rạp hát đông người, nàng đợi chàng mua vé. Nàng nhìn lên đồng hồ trước rạp ước tính thời gian cho buổi đi chơi bên nhau. Khi thấy chàng từ  quầy vé trở ra, nàng rất vui với nụ cười trên đôi mắt.

            Khán giả đi vào cửa chính. Đây là rạp hát lớn nhất của thành phố rất lịch sự, sạch sẽ. Những hàng ghế trống trước mặt lần lần có khán giả vào lấp chỗ, hai người ngồi ở hàng ghế xa bên dưới mái hiên của tầng lầu trên.

            Đèn trong rạp hát sáng, một bản nhạc dạo nghe êm ái, thân tình. Bàn tay nàng trong tay chàng, những ngón tay đan vào nhau, ấm áp như bao giờ cũng có mùa đông và những sợi len đan cho cuộc đời.

-Anh ở đơn vị lúc này ra sao ?

-Anh đi công tác luôn. Đôi khi, sau chuyến công tác phải viết bài phóng sự gởi báo Tiền Tuyến ở Sài Gòn.

-Ở đây, mình cũng làm việc cho báo Sài Gòn.

-Việc này anh làm thêm, khi đăng bài, tòa báo trả tiền nhuận bút.

-Em rất hãnh diện về anh.

-Còn em của anh là một cô họa sĩ trẻ đẹp.

-Em sẽ vẽ bức chân dung tặng anh.

            Bỗng nhiên, tiếng nhạc ngừng, rạp hát lắng im vừa đúng lúc đèn tắt. Trong bóng tối, chàng thấy từ gương mặt nàng ánh sáng tỏa rất dịu hiền. Nhìn gương mặt nàng, một giọng thầm, chàng nói:

-Em đẹp quá.  

            Chàng nghiêng mình qua,  trải rộng cánh tay lên thành ghế và chàng thấy hạnh phúc vô cùng khi nàng ngả xuống cả mái tóc mềm dịu rồi tựa đầu lên cánh tay chàng. Chàng hôn xuống vầng trán, xuống bên đôi má hồng của nàng, rồi hai người im hơi, dấu yêu với từng nụ hôn ngọt ngào trên cặp môi mềm ướt, thơm tho. Khi chàng hôn, đôi mắt nàng khép lại, run rẩy, và nàng thấy lại hình ảnh nhỏ bé thời thơ ấu, nàng cũng nhớ đến cô em gái có gương mặt thiên thần, và luôn luôn những bóng dáng ấy hiện về trong trí tưởng khi nàng nghĩ đến ngày mai đây của đời mình.

-Em và anh, chúng ta có nhau.

-Em yêu anh, nàng nói.

-Cám ơn em.

            Hai cánh tay nhẹ nhàng buông. Hai người đã qua phút mê đắm, giờ họ trở lại với cuốn phim dạo đang chiếu trên màn ảnh. Một lúc khá lâu, phim chính bắt đầu.

            Khi trên màn bạc hiện ra một quang cảnh những đoàn quân đang di chuyển Nguyên bỗng nhớ ngay đến những giòng đầu tiên ở cuốn tiểu thuyết mình đã đọc và liên tưởng đến một miền đất nước Ý trong thời kỳ chiến tranh. Đây là cuốn phim dựa vào tác phẩm cùng tên L’adieu aux armes của nhà văn nổi tiếng Mỹ đoạt giải văn chương Nobel, Ernest Hemingway.

            Bỗng nghe tiếng khán giả, và tiếng cô gái nữa cũng  kêu lên:

-Trời , cô ta dữ không.

            Rồi cô gái nắm giữ chặt cánh tay chàng. Cảnh trên phim vừa diễn ra là cái tát mạnh của cô gái vào mặt chàng trai khi anh chàng cố ý liều lĩnh ôm hôn cô. Rồi cô ta xin lỗi, và hai người trở lại với câu chuyện lòng của mình. Sau đó, cô để cho chàng ôm siết lấy và hôn mình.

            Khi xem phim, Nguyên luôn gợi nhớ từng đoạn văn mình đã đọc, và khung cảnh chiến tranh đã cho anh nghĩ nhiều đến số phận những người lính. Bên cạnh anh , người yêu cũng cuốn hút say mê xem phim. Jennifer Jones nữ tài tử nổi tiếng trong vai cô y tá Cathérine , Rock Hudson nam diễn viên, đóng vai chàng Trung úy Henry. Henry là người Mỹ phuc vụ trong đội cứu thương bên quân Ý.

            Một ngày hôm đó, đơn vị anh đóng quân bị địch tấn công bằng trọng pháo, và anh bị thương. Từ mặt trận, Henry được đưa về bệnh viện, ở đây anh gặp lại người mình yêu . Và, từ  đó mối tình nẩy nở.

..Nghe mưa kìa.

-Mưa đang nặng hạt.

-Và anh sẽ luôn yêu em phải không ?

-Sẽ luôn luôn yêu.

-Và mưa cũng sẽ chẳng gây nên điều gì khác biệt ?

-Chẳng làm khác biệt.

-Dễ chịu quá. Bởi em sợ mưa.

-Sao vậy ?.....

-Em không biết, anh yêu. Nhưng em luôn sợ mưa.

-Anh thích mưa.

-Em thích đi dầm mưa. Nhưng chẳng thể nào yêu được.

-Còn anh thì luôn yêu em.

-Em sẽ yêu anh trong mưa, trong tuyết, trong cả mưa đá và.. có còn loại gì khác nữa ?

-Anh không biết. Anh thấy buồn ngủ quá.

-Ngủ đi, anh yêu và dẫu thế nào đi nữa thì em cũng mãi yêu anh.

-Em chẳng sợ mưa lắm phải không ?

-Chỉ trừ lúc được ở bên anh.

-Sao em lại sợ mưa ?

-Em không biết.

-Nói đi.

-Đừng buộc em.

-Nói cho anh biết đi.

-Không mà.

-Hãy nói đi.

-Thôi được. Em sợ mưa bởi đôi lúc em thấy mình chết trong mưa.

-Em chẳng chết đâu.

-Và thỉnh thoảng, em cũng thấy anh chết trong mưa.

            Thiên Nga bỗng thốt lên sung sướng, cảm kích với đoạn đối thoại rất hay sau khi lắng nghe, vừa đọc hết dòng phụ đề Việt ngữ. Và cũng mang tâm trạng lo âu như cô gái trong cuốn phim, nàng nắm giữ chặt lấy cánh tay của chàng.

            Sau thời gian dưỡng bệnh, Henry trở lại chiến trường. Anh trở lại vào mùa thu năm sau đó. Trên đường đi, anh nhìn thấy quang cảnh những hàng cây trơ trụi lá và đường sá đầy bùn lầy. Từ  Udine, anh đến Gorizia trên một chiếc xe nhà binh, xuống đây, anh tìm đến chỗ đóng quân của đơn vị cũ. Không khí chiến tranh nay hoàn toàn thay đổi. Vào giai đoạn này, quân đội Ý bị nguy khốn và quân Áo đang thắng thế đã chiếm được nhiều ngọn đồi, nhiều ngọn núi và một số điểm chiến lược trọng yếu trên toàn mặt trận. Người ta bắt đầu thấy chán ghét chiến tranh. Rồi đến lúc, nhiều đơn vị của quân Ý phải di tản. Một cuộc rút quân diễn ra dưới cảnh trời mưa tầm tã. Henry cũng có mặt cùng với đồng đội là những người lính cứu thương trong đoàn quân triệt thoái. Nhưng khi vượt vòng kiểm soát của địch quân Áo đến vùng do quân Ý canh gác, Henry lại bị bắt giữ cùng với nhiều Sĩ quan khác. Những viên Sĩ quan này bị kết tội đầu hàng làm nhục nước Ý. Rất nhanh trí, thừa cơ lúc lộn xộn với  quân số đông, Henry đào thoát lao ra bờ sông, sau đó, anh leo lên trốn ở mái toa của đoàn xe lửa, và nhảy xuống trước khi tàu tiến vào ga Milan.

            Đối với Henry, anh đào thoát và coi như cuộc chiến tranh không còn nghĩa lý gì nữa với anh. Sau những gian nan, bất ngờ, Henry tìm gặp lại được yêu của mình. Do có lệnh truy nã vì tội đào ngũ, một lần nữa Henry phải trốn khỏi đất Ý.  Lần này, anh cùng với người yêu ra đi, trong đêm tối  trên một chiếc thuyền hai người cố sức chèo vượt sóng nước trên hồ, mưa tầm tã suốt đêm, nhưng rồi họ cũng đến được đất Thụy Sĩ. Nơi mảnh đất này là chốn yên bình, họ được sống bên nhau những tháng ngày rất hạnh phúc.

            Rồi Cathérine báo tin cho Henry biết, nàng có thai. Nhưng đến ngày hạnh phúc ấy, trong khi sinh nở khó, Cathérine kiệt sức do bị băng huyết, và cái chết của nàng như đã có trước sự ám ảnh: nàng chết dưới cơn mưa.

            Cuốn phim dài đúng hai tiếng đồng hồ, rất hay và xúc động. Khi đèn sáng, khán giả trong rạp cùng đứng lên và nối theo hàng trên các lối đi ra cửa chính.

            Bên ngoài, màn đêm vừa buông xuống phủ dài trên đường phố nhộn nhịp. Rạp hát vẫn còn chiếu  một xuất cuối nữa.

            Nguyên hỏi cô gái:

-Em nghĩ là mình nên ăn ở đâu ?

-Về nhà em.

            Anh chiều ý nàng, tay nắm tay, hai người đi bộ và rất thú vị khi trở lại với cuốn phim vừa xem. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng được dựng thành phim Nguyên đã đọc, lúc này, anh phân tích cho cô gái nghe những nét, những chi tiết gây được ấn tượng trong tác phẩm. Và, qua đề tài mưa, mưa trong tình yêu, mưa trong một cuộc chiến, mưa trong hạnh phúc tìm đến một nơi chốn riêng biệt thanh bình, với giọng nói của một tâm hồn trung thực, anh làm cho cô gái lắng im trong dòng tư tưởng.

            Rồi anh hỏi nàng:

-Em thích mưa không ?

-Rất thích, nhưng em cũng sợ mình chết trong mưa.

-Không đâu, chúng mình sẽ được yêu nhau trong mưa.

-Đó là tiểu thuyết mà anh.

-Không hẳn đâu. Ngoài đời, biết bao nhiêu đôi tình nhân đi dưới mưa. Mưa cũng là cảnh của nghệ thuật, mưa với dòng nhạc, với tiếng đàn, và mưa trong tiếng nói nữa.

-Em rất muốn vẽ một bức tranh mưa .

-Hay lắm. Em nên vẽ, hãy nói cho anh biết ý nghĩa.

            Thiên Nga nhớ lại buổi sáng ấy của ngày nhập học trời mưa lớn, vừa lúc cô đến cửa lớp thì chiếc guốc cô mang bị đứt. Và, lúc cô cầm chiếc guốc trên tay, nửa muốn cười, nửa như đang khóc, cảnh tượng lạ lùng đó đã làm cô ghi nhớ một hình ảnh thiếu nữ, và luôn luôn cô tự nhủ hãy đợi một ngày hoàn thành nên bức tranh.

-Hãy vẽ bức tranh quí giá đó. Em sẽ thấy mình đẹp, vẻ đẹp chính là cái bóng của em trong cuộc đời.

            Cô gái chợt hỏi:

-Anh có ý tưởng trời đang mưa không ?

-Em thật lãng mạn. Em đang nghĩ đến mưa, phải không ?

-Hãy cùng em nhớ cảnh mưa trong phim.

            Và rồi, chắp nối từng lời, hai người cùng ghi lại đoạn đối thoại rất hay, rất đầy ý nghĩa.

            Thiên Nga bỗng nói:

-Em phải tìm đọc cuốn này.   

-Anh sẽ tìm cho em.

-Nhưng có bản dịch tiếng Việt không ?

-Có.

-Em đọc được tiếng Việt thôi, tiếng Pháp, tiếng Anh em còn yếu.

-Em nên học thêm.

-Anh dạy em đi.

-Em sẽ học với anh lúc anh có thì giờ rảnh.

-Trước khi đi lính, anh có dạy học không ?

-Thời sinh viên, anh có dạy lớp đêm trong tổ chức của Tổng hội.

            Về đến nhà, thay áo quần áo nhẹ xong Nga đi đến phòng người mẹ. Bà mẹ hiểu được lòng cô con gái, và bảo cô chu đáo dọn chỗ nghỉ cho Nguyên ở căn phòng dành cho khách. Nga thấy trong lòng vui, nàng xuống bếp làm bữa ăn tối. Bữa ăn chỉ cho hai người thôi. Rất đơn giản, mỗi người một tô mì lớn đặt trên chiếc khay. Vừa ăn, chuyện trò, lúc này cô gái kể cho Nguyên  chuyện về gia đình, về người cha, người mẹ, và các cô em gái. Cô không có anh hay em trai, và cô tâm sự, đó là một tình cảm dường như làm cô thấy thiếu vắng.

            Nguyên nói:

-Hãy nghĩ là có anh trong đó.

            Cô gái gật đầu, và nói:

-Em cũng rất mong, đôi khi, em tìm được anh qua những ý nghĩ về gia đình. Em rất cần có một người anh.

-Còn một người em thì sao ?

-Cũng được, nhưng em thích có anh hơn.

            Một lúc ngập ngừng, Nguyên nói:

-Năm sau, nó được về phép, anh sẽ đưa nó tới thăm em.

-Người em có giống anh không ?

-Nó giống mẹ anh nhiều hơn. Bề ngoài với khuôn mặt khô, cứng cỏi, nhưng đời sống nội tâm của nó rất là sâu lắng, đam mê. Nó thích viết văn, đang muốn mình có sự nghiệp.

-Anh thì sao ?

-Anh chỉ theo nghề báo, về sau này, hết chiến tranh anh cũng sẽ làm báo.

-Anh không thích dạy học.

-Không. Những năm ở Sài Gòn, anh sống bằng nghề viết báo.

-Từ  Huế ra quê anh xa không  ?

-Bằng nửa đường Huế- Đà Nẵng.

            Bữa ăn xong. Vừa đứng lên dọn dep, cô gái nói.

-Lúc nào có dịp, anh đưa em ra ngoài đó thăm.

-Cám ơn em.

 

 

                                                          IV

 

             

            Bên cạnh lối cầu thang có một căn phòng dành cho khách. Khi mở cánh cửa đi vào, Nga bật sáng thêm một ngọn đèn nữa, xong nàng sửa soạn chăn màn cho Nguyên nằm nghỉ. Rồi trước khi rời phòng, nàng đứng lại giây lát để cho Nguyên đặt môi hôn lên trán nàng.

-Chúc em ngủ ngon.

-Anh ngủ ngon.

            Nguyên nghe bước chân của Nga đi trở xuống cầu thang, rồi xa dần. Nguyên có cảm giác thật dễ chịu, êm ái khi lên giường nằm, và trong cảm giác ấy anh nhận ra Nga còn bên anh.

            Bỗng nhiên Mỵ Châu ngước mắt khi nhìn thấy người chị xuất hiện.

-Em chưa ngủ ?

            Cô bé mỉm cười. Cô bé có gương mặt của thiên thần, đôi mắt đen mở to đẹp lạ thường.

            Nga kéo chiếc ghế ngồi xuống bên cạnh em. Và nàng cầm lấy cuốn sách, lật xem qua vài trang.

            Giọng cô em gái hỏi:

-Nhà mình có khách ?

-Anh Nguyên, bạn của chị.

-Học cùng trường ?

-Không, anh ở trong quân đội. Trước đây là sinh viên.

            Hai chị em lặng yên nhìn nhau. Không nói gì thêm cho đến lúc nghe chuông đồng hồ thong thả đánh lên từng tiếng nhạc trước khi báo giờ.

-Em nghỉ đi.

-Dạ.

            Chỉ để lại ánh sáng ngọn đèn nhỏ trong phòng, hai ngọn đèn lớn đều tắt. Khi trở ra, Nga cũng tắt đèn cầu thang rồi lặng bước về phòng mình nằm nghỉ.

            Nắng sớm dâng lên lan tỏa rất nhanh và tràn vào hết các căn phòng. Nguyên đã thức dậy, mặc xong quần áo, ngồi một mình anh mở tờ báo ra đọc. Nga xuất hiện với một gương mặt sáng đẹp, dịu hiền:

-Anh ngủ ngon không ?

            Nguyên ngước mắt với nụ cười nhìn người yêu. Nga đến gần, ngồi xuống cạnh anh và mở rộng bàn tay.

            Một chốc lát sau, nàng đứng lên nói:

-Em làm cà phê và dọn bữa ăn sáng cho anh.

            Nguyên lại ngồi đọc báo và chờ nàng trở lại. Sau khi dọn bữa ăn sáng xong, nàng trở lại tìm Nguyên. Hai người ngồi xuống ở bàn ăn tối hôm qua. Bữa ăn sáng có trứng ớp la, bánh mì cắt từng lát, và còn có bơ, pâté, cà phê sữa.

-Sáng nay mình đi biển chơi.

-Anh thích ra biển hay là chơi phố.

-Thôi, chơi phố, để nhớ phố trong những ngày hè. Ngày mai, em trở ra Huế và bắt đầu năm học mới.

-Anh nghĩ, em nên chọn ngành gì ?

-Em phải chọn ngành trong năm nay ?

            Thiên Nga gật đầu. Nguyên uống cà phê sữa, khen ngon. Cũng đã lâu, Nguyên mới có được ít ngày nghỉ thoải mái bên cạnh người mình yêu. Rồi những ngày tới đây, đời lính của anh, không chỉ có trách nhiệm cá nhân, còn là của cả đơn vị.

            Nhìn đôi mắt Nga, anh nói:

-Em ra ngoài đó học, có gì cần cho anh biết.

-Em muốn anh gìn giữ sức khỏe, luôn về với gia đình.

            Nguyên đột nhiên đứng dậy, lên tiếng chào , Nga vừa quay đầu thấy bà mẹ xuất hiện. Nàng hỏi:

-Má đã ăn sáng chưa ?

-Chưa, má chưa ăn.

            Một giọng tự nhiên, cô gái nói:

-Anh Nguyên mới ở Huế vào hôm qua. Có má đây anh được gặp, chút nữa con đưa anh đi thăm cả nhà luôn.

            Bà mẹ nhìn Nguyên và cô con gái. Bà hỏi Nguyên:

-Cậu quen Nga đã lâu chưa ?

-Dạ, cháu biết Nga từ năm ngoái.

-Cậu ở Huế một mình, hay có gia đình nữa.

-Dạ, gia đình cháu ở Huế đã lâu.

            Xong bữa ăn, cô gái không phải dọn dẹp mà nhân thể gặp bà mẹ, cô đưa Nguyên đi thăm và giới thiệu cả gia đình bên mình. Nguyên chỉ đáp lời khi nghe câu hỏi từng người.

            Và sau cùng, Nga đưa Nguyên vào một căn phòng riêng để thăm cô gái út trong gia đình.

            Nguyên rất ngạc nhiên trước vẻ sáng đẹp như thiên thần của Mỵ Châu và anh cũng  rất là ái ngại,  cảm thấy chạnh lòng. Mỵ Châu nhìn anh với cặp mắt thơ ngây. Nguyên chưa tìm được lời nói, bà mẹ ngồi đó lên tiếng giải thích.

            Có được không khí thân thiện trong gia đình, Nguyên hỏi:

-Em thích đọc truyện không ?

            Cô gái chỉ cười. Nguyên tiếp lời:

-Anh sẽ tìm những truyện hay cho em đọc.

            Một cuốn sách cô gái đang đọc dở, Nguyên mượn xem. Đó là cuốn truyện dịch: Con Chim Trốn Tuyết (Snow goose) của nhà văn Mỹ Paul Gallico.

-Những tiểu thuyết tiền chiến em thích đọc không ?

            Bà mẹ cười nói:

-Ngày nào, em nó cũng đọc sách.

            Nguyên gây được sự thiện cảm với người mẹ của hai cô gái, không bằng những câu khách sáo, mà sự chân thực biểu lộ rõ nét trên vẻ mặt của mình. Khi có được một con người thân tình như thế, bà mẹ hài lòng. Ngồi với con gái không lâu, bà đứng lên. Nga hỏi:

-Má thích ăn gì con đi mua.

-Khỏi, chút nữa má đi với ba.

            Nga cười, giọng dí dỏm nói với Nguyên:

-Má không lúc nào để riêng ba một mình.

            Người mẹ đáp ngay:

-Không, ba một mình không được đâu.

            Căn phòng tuy hơi tối nhưng ấm cúng nhờ ánh sáng những ngọn đèn néon. Nguyên ngồi xuống bên cạnh Mỵ Châu, nắm giữ bàn tay nhỏ bé của cô em gái. Anh nói:

-Em sẽ có nhiều sách hay đọc. Và, rồi đây, em sẽ làm một công việc viết văn để đi tìm ánh sáng đẹp cuộc đời.

-Anh nghĩ, là em có thể viết văn không ?

            Một giọng nhấn mạnh rất thân tình, Nguyên nói:

-Em sẽ phải có một cuốn sách của mình.

-Em viết nhật ký.

-Đã có ai đọc nhật ký của em chưa ?

-Chị Thiên Nga.

            Nga đưa mắt nhìn hai người, gật đầu nhẹ. Nguyên và Mỵ Châu ngồi bên nhau chuyện trò, và lần đầu tiên cô bé rất cảm kích về người anh của mình.

            Nga rời ghế đứng lên, sau vài bước đi, nàng kéo nhẹ bức màn làm cho ánh nắng tràn vào khung cửa sổ rực sáng lên. Bên kia bức màn là phòng vẽ tranh của Nga. Bên ngoài khung cửa, một cây bàng có những chiếc lá khô nhẹ nhàng rung động. Gió đang bay, qua cửa sổ nhìn xa hơn bạn có thể trông thấy một dãy phố bên kia. Ở phía đó, có một con đường đất dẫn tới một khu nghĩa địa bên ngã ba, từ đó, lại trông thấy một con đường nhựa khá rộng, rất dài ra đến vùng biển.

            Trong khi Nga đứng ngắm những bức tranh trên giá vẽ của mình, Nguyên nhìn Mỵ Châu với tình thương vô bờ đối với cô em gái. Anh nắm bàn tay Mỵ Châu, dìu bước cô em qua phòng tranh.

            Nga nói:

-Đây là những bức em đã vẽ xong.

            Nguyên ở bên cạnh Mỵ Châu, hai anh em nhìn tranh vẽ của Nga.

            Nga lên tiếng hỏi:

-Anh thấy em vẽ được không ?

-Anh muốn chọn một bức, em nghĩ thế nào ?

-Được chứ. Anh chọn hay là em ?

-Để cho em Mỵ Châu chọn, phải không nào ?

            Cô bé nở nụ cười, gương mặt hiện lên cái bóng của thiên thần. Lúc này, không khí trong phòng tranh thật là ấm cúng, trong đó, bạn chợt hiểu ra ý nghĩa về sự đi tìm tha nhân của mùa hè.

            Mỵ Châu nói:

-Chị Thiên Nga là nguồn ánh sáng của em.

            Nga đưa mắt nhìn Nguyên. Nàng nói:

-Khi em ngồi vẽ tranh, luôn có Mỵ Châu bên em.

            Nói xong một câu ngắn, Thiên Nga dừng để tìm ý tiếp cho lời. Nguyên bỗng nhắc:

-Và cây bàng ngoài kia, những chiếc lá khi còn xanh.

-Em cũng nghĩ như thế. Anh đã tìm được ý đó cho em.

            Tiếng Mỵ Châu nói:

-Về cây bàng, em có được đọc truyện Chiếc lá cuối cùng.

            Bỗng dưng, cả ba người ngơ ngẩn khi nghe tiếng chuông nhà thờ vang vọng.

-Anh Nguyên và chị Nga dạo phố đi.

            Nga đi lên phòng riêng của mình thay quần áo. Nguyên đưa Mỵ Châu về lại chỗ nằm. Bức màn khi kéo ra, đã làm cho cả căn phòng rộng rãi , ánh sáng đầy ắp, và có chút hương vị thơm.

            Nga xuất hiện với chiếc áo dài tím, mái tóc xõa vai. Nguyên nói với Mỵ Châu:

-Anh sẽ tìm một cuốn truyện hay cho em đọc.

-Cám ơn anh.

            Rồi trước mắt hai người, khu phố mở ra một ngày sinh hoạt náo nhiệt như thường lệ. Nguyên đã cho nổ máy, nhưng xe chưa lăn bánh. Nga ngồi sau, cẩn thận kéo vạt áo và xê dịch một chút vị thế chỗ ngồi.

            Ông bà Tri đứng ở trên balcon nhìn xuống, cả Nguyên và Nga không trông thấy. Khi ra đầu đường, Nguyên cho xe rẽ phải lên phố Độc Lập. Rồi từ ngã tư đầu phố này, anh chạy xe hướng về phía bến Cảng. Trên đường Độc Lập, hai bên lối đi là vỉa hè lát đá ca rô nhỏ, những hàng cây vươn cao, thẳng đều. Thành phố Đà Nẵng, thời Pháp có tên là Tourane, nay vẫn còn quen dùng ở những người thuộc thế hệ yêu thích nói tiếng Pháp. Nơi thành phố này cũng ghi nhận hai sự kiện lịch sử, ngày 1-9-1858 Hải quân Pháp đánh chiếm hải cảng này mở đầu cuộc xâm lăng thuộc địa, ngày 8 tháng 3 năm 1965, có hai tiểu đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ một dấu hiệu cho thấy cuộc chiến tranh Việt Nam bắt đầu leo thang.

            Thiên Nga, nàng là một thiếu nữ có vẻ đẹp tựa như mặt trời và mặt trăng trên trái đất. Nguyên thật sung sướng, anh sẽ giữ mãi trong tim anh một lời cám ơn nàng. Và, nàng đang nói với anh những lời của ánh nắng mùa hè, rồi lời của gió, cơn gió nghe rung động bỗng ùa tràn tới thổi tung bay, rào rạt qua mái tóc của nàng.

-Em phải trả lại căn nhà ngoài đó ?

-Sao vậy ?

-Nhà người anh họ của em, anh ấy học ở Sài Gòn nay trở về.

-Rồi em định sẽ ở đâu ?

-Ở nhà người bạn trên đường Huyền Trân, cũng không xa nhà anh lắm.

-Anh sẽ về nhà luôn như lời em dặn.

-Nhớ đó, lời nói của em tuy nhẹ, nhưng cũng cứng như thép.

-Ngày mai, em tính đi bằng cách nào ?

-Thì ra bằng xe đò.

-Anh nghĩ, đi xe lửa ngắm cảnh vui hơn.

-Cũng được. Đi xe lửa cũng thích.

            Ngôi trường Sao Mai ló dạng phía trước. Khi đi ngang qua một cửa hiệu nước hoa, vừa trông thấy tên bảng hiệu, Nguyên nói:

-Cô gái ngồi trong cửa hiệu là bạn học của Thụy đó.

-Anh cũng biết.

-Anh biết. Thụy đã dẫn cô ấy lên quân trường Thủ Đức thăm chồng, anh ta học sau anh một khóa.

-Cô Thúy Hà phải không ?

-Hình như vậy.

-Cậu Duy có bà con bên gia đình mẹ em.

-Thụy  cũng học ở trường Sao Mai.

            Ngôi trường đối diện với bến Cảng. Thiên Nga nói:

-Mới đó mà đã hai năm em xa trường cũ.

-Em cũng nên dành thì giờ học thi ?

-Chương trình Tú Tài nhiều môn quá, em học không hết.

-Em gắng học ngoại ngữ để thi ban văn chương .

-Em chỉ biết tạm tiếng Anh, tiếng Pháp quá yếu.

-Anh sẽ giúp em.

-Hoàn tất nhiệm vụ không ?

-Có em, anh rất hết lòng.

-Người con trai nào khi được yêu, lời nói nghe thật dịu dàng.

-Nước trái cây là chất xúc tác của tiếng nói, em đồng ý không ?

-Anh nhớ hoa hồng nào cũng có gai, nhé.

-Tên em là tên của loài chim, không phải của những bông hoa.

-Vậy mà, em rất thích hoa, vẽ tranh về hoa.

-Em là đôi cánh của thiên thần. Một ngày nào đó, anh nhìn thấy em trên bầu trời, và cũng có thể trên mặt biển.

-Em rất thương Mỵ Châu ?

-Anh biết. Nhưng tại sao em Mỵ Châu chịu cảnh tật nguyền.

            Với giọng xúc động của người chị yêu thương em, Thiên Nga kể câu chuyện cô bé em mình cho Nguyên nghe.

-Con bé giúp việc ham chơi quá.

            Nguyên cố nói ra giọng hờ hững để che dấu xúc động. Nga đang khóc, nàng nói thêm:

-Nếu em Châu chịu khó, có thể thương tích sẽ lành lặn.

            Vào năm đó, Mỵ Châu được đưa lên Đà Lạt để trị bệnh và điều dưỡng. Nhưng ở một nơi cao nguyên lạnh lẽo, vắng lặng, cô bé rất buồn vì xa gia đình, vậy đó mà đành chịu không chữa được nữa.

            Từ bến Cảng, Nguyên phóng  xe chạy trên con đường hướng ra biển. Hai người nghĩ đến nhau qua câu chuyện về gia đình, về cuộc sống đã có trong quá khứ.

            Khi đến biển, Nguyên gởi xe và cùng với Nga đến chỗ nhà nghỉ ngồi uống nước nhìn ngắm cảnh biển. Ngoài biển, nhiều người đang tắm. Trên bãi, đông người đi dạo, chơi bóng tròn, bóng chuyền. Nhìn lên phía xa một chút, có một nhóm du khách phụ nữ nước ngoài, họ ngồi trên ghế  vải dưới mái những chiếc dù màu hồng, màu xanh dương, và hướng tầm mắt nhìn tới một nơi xa đang có sương mù bao phủ bóng núi.

            Nguyên nói:

-Năm đầu tiên lên trung học, anh và Thụy được đi dự trại hè ở Cửa Đại.

-Em có ý tưởng, anh và người em rất giống nhau.

-Khi được hay biết em học về ngành mỹ thuật, nó sẽ hỏi em nhiều lắm.

-Thụy cũng biết vẽ chứ ?

-Không. Nhưng nó rất thích về họa. Tâm hồn của hắn là ly cà phê, chiếc áo mặc màu thuốc lá, và những bức tranh vẽ ngựa uống nước bên dòng suối. Bên dòng suối, không chỉ có khung cảnh thanh bình của bầy ngựa, mà còn có những cô gái nữa.

-Chắc là người em, chưa biết gì về chuyện quen nhau của anh và em.

-Chưa đâu.

-Anh không hề nói.

-Không. Năm tới, em nán ở lại ở Huế những ngày hè, rất có thể nó được một kỳ nghỉ phép trở về thăm.

            Nga cười nhìn sang Nguyên đang nói. Trên tay, nàng luôn trở nhẹ hai thanh gọng chiếc kính mát .

-Anh nghĩ, em có nên chuẩn bị một câu chuyện hay về hội họa để nói với Thụy khi gặp nhau không ?

-Không nên, em cứ nói ra bằng cảm xúc trong sự sáng tạo của mình.

            Nguyên gọi người hầu bàn đến trả tiền. Hai người rời nhà nghỉ đến chỗ gửi xe, và từ phía biển cách xa thành phố Nguyên chạy xe nhanh trở về, lúc tới bến Cảng anh men theo con đường bờ sông. Một giọng vui, anh nói:

-Trên sông đang đầy nắng, đợi có gió lớn em nhớ  thả cho mái tóc bay qua sông.

-Em không lãng mạn như anh nghĩ đâu .

-Nhưng em cũng đừng để cho sợi tóc nào cứa đứt môi.

-Sao vậy ?

-Linh hồn của tình yêu nằm trong sợi tóc. Khi một sợi tóc cứa đứt môi, đó là dấu hiệu của sự chết chóc.

-Nhưng đó  cảnh bi thảm về chiến tranh.

-Em có nhớ không ?, Cathérine ám ảnh cái chết của mình trong cơn mưa.

-Vâng, em hiểu.

-Mưa, tác giả nói về chiến tranh, nói về tình yêu chỉ tìm thấy ở một nơi riêng biệt thanh bình.

-Em có cảm giác mình run sợ.

-Không đâu em, anh chỉ nói về lãng mạn của tình yêu đấy thôi. Em đang còn một thời thiếu nữ đỏ rực như hoa phương nở trong mùa hè.

-Anh thích màu tím không ?

-Anh thấy đó là màu buồn. Còn hoa hồng, em thích chứ.

-Đôi lúc, anh hãy gọi tên em là Rose.

-Anh nhớ.

            Dòng sông trải dài với nhiều đợt sóng nước lớn và nắng tỏa rộng hết quang cảnh hai bên bờ.

            Tới một ngả ba, có lối rẽ lên phố chính Nguyên theo con đường này  trở lại khu trung tâm của thành phố. Nguyên cho xe chạy quanh một vòng ngắm phố rồi đến ngừng trước hiệu sách Lam Sơn.

            Xe dừng bên lề đường. Nga bước xuống, nàng sửa lại thân áo và mái tóc hơi bị xổ rối bởi gió ngoài sông.

            Buổi trưa, cửa hiệu đông khách ra vào, và giờ này cũng là giờ cao điểm phát hành các nhật báo Sài Gòn.

            Hai người đi sâu vào bên trong, dừng lại trước dãy kệ dành cho sách truyện. Nguyên lướt nhanh mắt nhìn qua mỗi tầng kệ để tìm mấy cuốn sách, trước hết cho Mỵ Châu, sau đó là củaThiên Nga. Nguyên thực vui, hài lòng khi tìm thấy. Rồi đến lượt, Nga dắt Nguyên qua chỗ trưng bày sách về họa và nhạc. Nga chọn được mấy tập nhạc tiền chiến, và tập nàng thích nhất là Những Tình Khúc Bất Tử, nhạc ngoại quốc, Phạm Duy soạn lời Việt.

            Khi ra quầy trả tiền, cô bán hàng cho tất cả sách hai người mua vào cái túi nylon nhiều màu có tên của hiệu sách in ở ngoài trông rất đẹp. Nga cầm túi xách theo Nguyên ra đường, rồi hai người lên xe về nhà không đi đâu nữa.

            Buổi chiều ấy, Nguyên ở nhà với Thiên Nga và trò chuyện với mọi người trong nhà. Ông bà Tri có bốn cô con gái, sự hiện diện của Nguyên mang một tình cảm đặc biệt với gia đình Nga.

            Suốt buổi chiều, đôi tình nhân không rời nhau. Nguyên cũng biết đánh đàn, anh đánh một số ca khúc, còn Nga rất thích những bài hát trong tuyển tập Những tình khúc bất tử. Nàng đã hát theo nhịp đàn lúc Nguyên phụ họa. Ở tập này, có cả lời tiếng Pháp nữa, những bài nào Nga thích, Nguyên vừa đọc lời tiếng Pháp và giảng nghĩa cho Nga hiểu.

            Tối hôm ấy, cũng là tối đầu tiên Nguyên hướng dẫn cho Nga học môn tiếng Pháp.

            Ngày hôm sau, hai người đi chuyến tàu sớm. Nguyên tới quầy mua hai vé ở toa đặc biệt. Khi ra khỏi cửa ga, hai người đi về phía toa cuối hết. Nguyên xách chiếc vali của Nga, còn Nga đeo túi xách, và một tập giấy vẽ cùng cọ, bút màu. Nàng mặc quần jean,  áo sơ mi kẽ sọc tím, dáng bước thật nhanh nhẹn. Khung cảnh nhà ga có những nét lạ làm Nguyên chú ý, sinh hoạt buổi sáng ở đây rất ồn ào nhưng không diễn ra cảnh hỗn độn, chen lấn.

            Cửa sổ toa xe mở cả hai phía. Nguyên sắp xếp hành lý lên giá xong xuống ngồi cạnh Nga. Tàu chạy đúng giờ đã ghi trên bảng thông báo hành khách, những vòng bánh lăn chậm lướt qua, bên dưới một vài người đưa tay vẫy chào, rồi con tàu cứ thế dần xa, khuất dạng thành phố.

            Bữa ăn sáng trên toa đặc biệt có nhiều món , hai người gọi hủ tiếu và cà phê sữa.

-Khi nào có Thụy về phép, chúng mình ra thăm quê ngoại một chuyến.

-Xa không anh ?

-Xa hơn quê nội chừng ba mươi cây số.

-Em thấy bác trai hay đi nhiều, ít khi ở nhà.

-Ba anh làm việc ở ngành xã hội nên đi công tác luôn.

-Anh và Dung có nét mặt giống bác trai.

-Ba anh tuy nhỏ người nhưng cũng hay. Ông có má lúm đồng tiền đó.

            Nga cười:

-Anh cũng có nữa.

            Nguyên ăn xong, cầm ly cà phê sữa uống. Trong lúc Nga còn ăn, anh cầm thìa khuấy sữa cho ly cà phê của Nga. Nàng nhìn anh, luôn cảm thấy hạnh phúc từ cặp mắt anh gửi lại, trẻ thơ, đằm thắm. Hai người, anh cũng như cô gái luôn có một ý nghĩ giống nhau từ những nụ cười tỏa sáng ra nơi cặp mắt.

            Hai bên đường, ánh sáng rõ dần lan rộng trên từng cảnh vật. Và rồi, chỉ ra khỏi thành phố nửa giờ đường, đoàn tàu đã dừng lại một nhà ga nằm gần quốc lộ, nơi đây bạn sẽ nhìn thấy biển và con đèo bên dưới núi.

-Em chọn học về lụa, anh nghĩ sao ?

-Anh không mấy rành về hội họa, nhưng chọn học vẽ lụa, thích hợp với em hơn.

-Em chọn con đường nào anh cũng thấy đúng phải không ?

            Nguyên gật đầu. Nga ngả người trong vòng tay ôm ấp của anh. Nguyên vẫn lặng im như thể tìm một câu chuyện, một khoảng thời gian nào đó đã xa, trước khi anh có cơ duyên được gặp cô gái đang hạnh phúc trong vòng tay của anh. Tàu chuyển bánh rời ga, từ cửa toa tàu, hai người nhìn thấy một không gian rộng sáng đẹp, hài hòa những màu sắc êm dịu và nổi vật như là cảnh trong bức tranh.

-Cô họa sĩ của anh !

-Anh nhớ cô nào đó mà gọi tên đấy.

-Anh không nhớ ai hết, nhưng anh biết em yêu anh ?

-Thực không ?

-Đó là tình yêu của thiên nhiên.

-Em rất là vui khi được anh dạy em học.

-Anh mong mỗi ngày đều có em.

            Đoàn tàu vừa đến bên dưới chân đèo, rồi dừng lại. Không gian đã phối hợp và sắp đặt từng vị trí cảnh vật hai bên đường trước khi con tàu chuyển bánh. Biển lòa sáng dưới nắng. Những cánh rừng bên triền núi xanh thẳm và có những khe suối khi ẩn, khi hiện. Nước suối chảy gập ghềnh qua những mô đá. Và, chim rừng cất tiếng ca hát, vừa gọi nhau.

            Bây giờ con tàu chuyển bánh trở lại. Trong tình yêu dấu, Nguyên ôm giữ lấy Nga và cả hai cùng yên lặng ngồi trên chiếc ghế sát cửa sổ toa xe, vừa nhìn và cố ghi nhận từng nét cảnh vật. Đoàn tàu trườn lên vượt qua từng đoạn dốc với hai đầu máy, trước kéo, đằng sau đẩy. Sau cái nhìn luyến nhớ từ đôi mắt, Nga hé môi để cho Nguyên đặt môi hôn.

            Chẳng bao lâu, đoàn tàu qua khỏi Hải Vân bên con đường đèo dài đến 12 cây số. Phía dưới đèo là vùng đồng bằng, cảnh trí là ruộng đồng, làng mạc, những con sông, những cây cầu. Khi Thiên Nga nhìn cảnh vừa vẽ tranh, Nguyên lục tìm trong túi xách tờ báo, hoặc cuốn sách để đọc. Buổi chiều qua, ở hiệu sách, Nguyên mua được mấy cuốn để dành cô em gái Mỵ Châu và người yêu của mình.

            Khi lấy cuốn sách, Nguyên chưa mở ra đọc ngay, anh nhìn ngắm Thiên Nga đang buông thả tâm hồn với cảnh vật và qua những nét trên bức vẽ. Nắng sáng, in dấu trên mái tóc nàng. Và, cả trên thân áo của nàng nữa cũng điểm lấm tấm những bông hoa của ánh nắng. Rồi, cùng với bút vẽ những nét tài hoa của nàng bay lượn trên giấy , mỗi nét tạo được ngay ấn tượng không cho bạn nhận ra từ cảnh ở ngoài mà chỉ thấy trên tranh nàng đang vẽ. Bên dòng suối chảy có bóng cây, trên mái nhà có ánh nắng, một dòng sông bên dưới cây cầu, rất xa khung cảnh đó là một làng quê vắng lặng yên bình.

            Nguyên mở sách đọc: Thung lũng  Salinas ở về phía Bắc tiểu bang California là một dãy đất dài và hẹp nằm giữa hai dãy núi và con sông Salinas ngoằn ngoèo uốn khúc ở chính giữa cho đến khi đổ thẳng ra vịnh Monterey.

            Nguyên đọc nhanh và từng trang dịch của câu chuyện rất cuốn hút anh. Cuốn sách anh đang cầm đọc là cuốn Phía đông vườn địa đàng (East of Eden), tác giả là nhà văn Mỹ John Steinbeck.

            Lúc này, đoàn tàu đang chạy chậm sắp sửa đến ga xép. Qua bóng im của lá rừng, Nguyên trông thấy người bẻ ghi cầm cờ đứng đợi đoàn tàu tới.

-Em vẽ xong chưa ?

-Chưa đâu.

-Anh muốn ngưng đọc sách để ở bên em.

-Khoan đã. Anh cứ đọc sách đi. Em đang sửa lại bức vẽ.

-Em là một cô họa sĩ rất dễ thương.

-Anh khen em nhiều lắm rồi, từ hôm qua đến hôm nay.

-Không có ai thật lãng mạn như em cả. Vừa là hành khách trên tàu, vừa là họa sĩ vẽ tranh.

-Em cảm thấy thật dễ chịu.

-Anh đọc sách tiếp đây.

-Anh đọc đi. Rồi kể cho em nghe.

            Khi đoàn tàu dừng, những người bán hàng rong cất tiếng rao. Và, có một đứa nhỏ đứng bên dưới nhìn cô họa sĩ vẽ tranh. Bất chợt gặp nó, cô gái mỉm cười rất là thú vị.

            Sau mười phút ngừng, đoàn tàu chuyển bánh. Cô gái đã vẽ xong bức tranh. Người yêu của cô ngừng đọc sách, rất hài lòng với bức tranh cô vẽ. Trên quãng đường đi, đoàn tàu lúc nhanh, lúc chậm và đến mỗi ga xép lại ngừng khoảng chừng trong năm, hoặc mười phút.

 

 

                                                              V

 

           

            Sài Gòn vẫn đang trong mùa mưa. Thụy mới viết thư về thăm gia đình. Trong lá thư này, anh nhắc đến Thiên Nga với cô em gái và nhắn gửi một đôi lời hỏi thăm nàng. Trong sự thầm kín không phải vì đã yêu, nhưng thực lòng rất mong nhớ, anh rất muốn viết lá thư gởi nàng, những dòng thư của anh sẽ trang trải hết mọi niềm hân hoan từ buổi chiều nghe câu chuyện em gái anh nói về nàng, thế là anh có gặp nàng trong trí tưởng, hay là trong giấc mộng.

            Sau thư gia đình, cùng hôm đó Thụy viết thư gởi Thúy Hà. Vừa áy náy, cân nhắc, rốt cùng anh phải bỏ qua không nói với nàng về kỳ nghỉ phép về Huế mới đây. Nhưng  ích gì không, người bạn gái dường như vẫn còn ở trong tim anh một sự chờ đợi, vẫn có một mối tình mà dù ở hoàn cảnh nào cũng không ngăn cách nổi. Đã có lúc, anh tự nhủ mình quên, nhưng rồi, bóng dáng nàng từ đâu trở lại đứng bên anh rất lâu trong thời gian của giấc mơ.

            Thụy rất thường hay đến nhà dì Hồng, có bữa ở lại chơi ăn cơm và đánh bài xì dách. Thụy thường được bạc nhờ đỏ, nhưng không nhiều lắm.

            Suốt cả tuần nay bên nhà Huê đóng cửa. Thụy  không hỏi Thúy, nhưng mỗi lần đi ngang không thấy bóng nàng, anh băn khoăn.

            Rồi cũng không vắng lâu, nàng đã trở lại. Vừa trông thấy nhau, cả hai cùng vui mừng. Huê mặc bộ quần áo thường có chấm bông đỏ đứng ở hiên ngoài. Gió thổi nhẹ mát, lay động những ngọn lá trên chậu hoa nơi Huê đang đứng. Thụy tới gần, dừng lại trên bậc thềm.

-Anh mới đi đâu về ?

-Đi chơi với người bạn.

            Huê mời Thụy vào nhà chơi. Đèn căn phòng trước sáng, thật dễ chịu trong không gian rộng vì chỉ bày biện đơn giản. Cô gái lên tiếng:

-Em ở Long Xuyên mới về.

-Vậy à.

-Em về thăm ba mẹ.

            Huê bỏ đi ngay sau đó, cô vào nhà trong, chốc lát sau trở ra với chiếc khay rộng có trái cây và nước uống. Thụy đang ngắm nhìn bức ảnh của Huê đóng khung treo trên tường. Bức ảnh đen trắng, càng nhìn anh thấy rõ hơn những nét đẹp duyên dáng, ở đôi mắt lồng kính một nụ cười đang tỏa sáng trên một gương mặt thật tươi trẻ. 

-Trái cây đầu mùa phải không em ?

-Vâng.

-Em thi cử ra sao ?

-Trượt rồi.

-Em không nói đùa.

-Không.

-Em không thể nào rớt được.

-Anh không tin à ?

-Hoàn toàn không .

-Tùy ý anh.

            Hai người ngồi xuống gần nhau.

-Trông anh khỏe mạnh.

-Anh trông tin em. Đi ngang qua nhà mấy lần vẫn thấy đóng cửa.

-Thúy không nói gì với anh ?

-Anh không hỏi.

-Em mới về chiều nay.

            Mỗi thứ trái cây có vị ngọt, hương thơm riêng. Hạnh phúc đến với Thụy hơn hết là lúc này được ngồi bên Huê trong nhà nàng. Nhà vắng, Thụy hơi bâng khuâng và có chút do dự, ngỡ ngàng.

            Huê nói:

-Em sắp đi ở nơi khác.

            Thụy bỗng ngồi im, bất động. Một lát sau, anh hỏi nàng:

-Sao em muốn đi khỏi đây?

-Nhà này gia đình muốn cho thuê.

-Cho thuê hả.

-Ờ. Huê cười tiếp lời, anh muốn thuê không ?

            Thụy bỗng có ý tưởng như đây là căn nhà của anh. Cô gái để nguyên vẹn khuôn mặt cho anh ngắm nàng. Thụy nhớ lại buổi chiều hôm ấy trời mưa, canh bạc nhỏ trên căn gác, tiếng nói của Huê , rồi ly cà phê mang ý nghĩa cuộc đời của kẻ thất chí, nỗi buồn nhớ anh vẫn còn ray rứt trong ngày ra đi. Rồi một buổi sáng ấy trên bến Cảng có hình ảnh một thiếu nữ mặc áo trắng. Con tàu cất tiếng còi nghe vắng xa. Tàu vừa tách bến, Huê ở trong lòng anh, nàng theo anh qua một quãng đời.

-Anh về nghỉ phép vui không ?

-Không vui, buồn.

-Sao vậy ? Chắc cô bồ ngoài đó quên anh.

-Không, anh không có bồ.

-Thực vậy sao ?

-Về Sài Gòn, gặp lại em anh vui.

-Thực hả.

            Rồi một giọng điềm nhiên , Huê nói:

-Hết tháng này người thuê nhà dọn đến ở.

- Nhưng em đi đâu, xa hay gần Sài Gòn.

- Cóù nhà bên khu Bàn Cờ, em về ở với gia đình chị Yến.

-Còn anh Chương ?

-Anh đi du học, qua Mỹ rồi.  

-Ở nơi này sẽ vắng bóng em. 

-Em nghĩ là không sao cả. Thực tình, chỉ thi lại loạt hai nên em dễ đậu.

-Mừng cho em.

            Huê không nói gì, nhưng đôi mắt nàng muốn gợi nhớ ra nhiều kỷ niệm cũ. Từ ngày ấy không xa lắm khi người lính trở về.

            Ngày nhập ngũ, Thụy lên đường ra Nha Trang bằng tàu thủy. Lênh đênh giữa sóng biển một ngày đêm, sáng hôm sau tàu ra tới thành phố Nha Trang, và đây là một thành phố biển đẹp nhất miền Trung.

            Rồi sau ba tháng học căn bản quân sự, lễ mãn khóa Thụy được cấp bằng hẳn hoi. Thụy rời quân trường trễ hơn các bạn một tuần, vì ở lại dự kỳ thi Tú Tài I. Thực may mắn, mấy hôm thi anh làm bài được, nhưng cũng có nhờ hai thí sinh ngồi gần bàn nữa. Buổi chiều ngày chủ nhật, Thụy đi ra phố chơi, ghé quán nước giải khát rồi vào rạp hát xem phim Le temps d’aimer et le temps de mourrir. Cuốn phim dựa theo tiểu thuyết của nhà văn người Đức Erich Maria Remarque. Thụy  đã đọc cuốn truyện dịch, nên lúc coi phim, có nhiều câu đối thoại bằng tiếng Pháp anh hiểu được, không cần nhìn xuống dòng phụ đề.

            Khi đèn rạp hát sáng lên, anh vẫn ngồi trên ghế. Ý nghĩa về cái chết của người lính trong chiến tranh thật là buồn. Tình yêu của nàng và người lính, nương tựa vào lá thư, vậy mà lá thư anh ta cầm trên tay chỉ đọc được ít giòng, rồi anh ngã gục, lá thư buông trôi trên dòng nước.

            Phố chính đường Độc Lập bừng dậy trong không khí nhộn nhịp, rất đông người ngày cuối tuần. Hai bên, những cửa hiệu buôn bán nối nhau, nhiều quán hàng ăn, quán giải khát chỗ nào cũng đông khách ra vào, và ồn lên tiếng nhạc kích động.

            Thụy ghé tiệm phở, lúc bước vào thấy đông khách , nhưng anh không đợi lâu. Tiệm ăn sạch sẽ, mùi phở thơm ngào ngạt làm anh cảm thấy đói. Thụy gọi tô lớn, lúc người chạy bàn mang ra, có bao nhiêu thứ gia vị để sẵn trên bàn, anh cho mỗi thứ một chút, và rồi một mình thưởng thức bữa ăn ngoại lệ của mình. Trong lúc ăn, anh muốn quên đi cảnh đời khó khăn của gia đình, ba mẹ, các em anh đang ở Huế, và quên đi số phận mình là người lính dù không bị súng đạn đe dọa, nhưng cuộc sống không cách nào nhìn thấy ngày mai đây sẽ trở nên tốt đẹp.

            Thụy ăn hết tô phở, vừa đủ no và ngon. Bên kia đường là một hiệu sách có bày nhiều tranh ảnh đẹp treo ra phía ngoài. Trên phố nãy giờ luôn nhộn nhịp, đông vui, và những gương mặt người tân binh hay SVSQ các quân trường trông rất tươi trẻ. Hạnh phúc cho các thiếu nữ và các chàng trai người đang có người yêu đi bên cạnh mình. Thụy dừng lại giây lát trên bờ đường nhìn ngắm mái tóc, những tà áo duyên dáng, mơ mộng của các cô gái trong thành phố này. Và, mai đây như thế nào thì đó là chuyện của thời gian trả lời.

            Ở trên chiếc bàn dài thấp gần quầy tính tiền là nơi đặt  báo. Tất cả đều mới, tạp chí, tuần báo đến nhật báo. Báo Văn, số này là tuyển tập thơ văn. Lúc báo này ra mắt số đầu tiên, Thụy rất thích, khi mượn được của người bạn trong tuần đầu anh đã đọc hết. Và, báo này đã gợi lên trong anh niềm ước ao sự có mặt tên tuổi của mình. Thời gian qua, anh không dám gởi bài vì lượng sức mình chưa đủ. Những truyện ngắn anh sáng tác, chỉ vừa trong trình độ của nhật báo, tuần báo thôi. Nhìn báo Văn, truyện muốn được đăng bạn cần có một cách viết lạ trong ngôn ngữ  và ý tưởng mới. Một lần thất bại của Thụy là truyện ngắn viết về Thúy Hà, người bạn gái anh vô cùng yêu thương. Khi nhận được thư  tòa soạn, anh hiểu ra cái non nớt, yếu kém của mình không là nội dung câu chuyện, mà ở cách viết. Tuy nhiên, anh rất hài lòng với chi tiết tả buổi sáng ở lớp học cùng với nàng đánh cờ ca rô , bất giác, trong phút giây xúc động của tình yêu, nàng để cho anh mở rộng bàn tay nâng mái tóc nàng lên nhìn gương mặt nàng qua một vẻ đẹp tỏa sáng.

            Buổi chiều đang xuống, nắng dần trôi xa. Khi ra khỏi hiệu sách, bên tay Thụy là một cái túi nylon đựng một cuốn truyện dịch và mấy tờ báo.

            Trên đường về nhớ đầy

            Chiều chậm đưa chân ngày

            Thụy bước đi thanh thản, vừa sống với những giờ khắc hạnh phúc. Mỗi nơi chốn mang đến, từng thứ một thật là nhẹ nhàng.

            Buổi chiều thân tình như người bạn. Thụy  chưa muốn trở về trại, vì hôm nay là ngày cuối ở Nha Trang, và sáng mai chiếc  túi sac marin, chiếc ba lô đeo vai, Thụy sẽ giã từ quân trường.

            Bỗng nhiên, Thụy dừng bước đưa tay dụi mắt. Một bóng người đàn bà áo trắng vụt hiện, đứng ngay trước mặt anh thật lạ lùng. Thụy hết sức bối rối, ít giây sau mới nhận ra. Và, anh thấy nàng thay đổi rất nhiều. Nàng đứng yên đó, cặp mắt bất động nhìn anh.

            Anh thấy nàng (có hơi mờ đi), và hơi e thẹn, ngập ngừng.

-Ông Thụy, nàng khẽ nói.

            Người lính mỉm cười, vẻ mặt bỡ ngỡ.

-Ông không nhận ra tôi ?

            Một vài giây sau.

-Có, Thụy đáp nhỏ tiếng.

-Ông biết tên tôi không ?

-Cô Thùy.

            Nàng cười, đưa tay cho Thụy  bắt. Nhìn quanh, anh nhận ra đây là khu Phước Hải ngày xưa, không thay đổi nhiều. Phía bên đường là nhà thờ Chánh tòa xây bằng đá. Thụy nhớ lại những buổi tối anh và Nhị ra nhà thờ ngồi chơi, hóng mát, gió nhẹ rung lên khi buổi chiều vừa tới giờ chuông đổ, sau một lúc, có tiếng còi tàu từ nhà ga vọng tới.

-Cô Thùy vẫn còn ở Đà Lạt ?

            Nàng cười bảo:

-Tôi đâu còn là học sinh nữa.

-Tôi cũng vậy, mới đi lính mấy tháng.

-Ông có nhà ở đây ?

-Không, tôi đang ở quân trường.

            Quán nước mía bên đường có căng tấm bạt rộng. Thụy và nàng đến đó, ngồi xuống ghế nhỏ bên chiếc bàn vuông thấp. Nước mía mang ra, mỗi ly có ống hút.

-Cô Thùy được mấy cháu rồi ?

-Chưa.

-Sao vậy ?

-Đừng hỏi lôi thôi, ông bạn.

-Không lẽ, cuộc sống gia đình không có gì vui ?

-Bộ ông muốn nhảy vô hả.

-Không dám.

            Nàng cười nhìn lại người bạn cũ.

-Anh Thụy vẫn trẻ con như ngày đó.

-Tôi vẫn nhớ buổi đầu tiên gặp Thùy . Những kỷ niệm về Đà Lạt của tôi nằm trong ngày đó.

            Nàng chỉ mỉm cười không nói.

-Nước mía uống thật ngon.

-Anh có viết thư thăm thầy Phiên không ?

-Có. Cậu tôi đã được giải ngũ.

-Rồi đến lúc nào anh ra trường ?

-Tôi vừa mãn khóa học. Ngày mai, tôi trở về Sài Gòn.

            Ly nước mía bên nàng đã vơi một nửa. Nàng nói:

-Gia đình Thùy vẫn ở Đà Lạt.

-Đường Phan Bội Châu ?

-Sao mà nhớ ghê vậy ?

-Có cây si trồng ở đó, chặt đứt không ?

            Nàng cười, ánh mắt dịu lên một vùng sáng. Bên cạnh người lính, còn một chiếc ghế trống. Và, nàng vừa mở rộng bàn tay cho chàng được nắm lấy.

-Đà Lạt, kỷ niệm đẹp trong thời đi học.

-Rồi sương mù, rồi cỏ, những đồi thông, rồi.. nhiều nữa.

-Thùy  sinh ở Đà Lạt hay ngoài miền Bắc.

-Ở đường Phan Bội Châu.

-Con đường có đồi khế, màu đất đỏ.

-Cám ơn anh Thụy đã nhớ.

-Tại sao Thùy không mặc áo tím ?

            Thời gian đã làm cho kỷ niệm lắng xuống rất sâu. Và, nếu Thụy nhớ lại rõ nét, nói ra tên con đường, vẽ lại từng màu sắc chiếc áo, vẽ lại được cả từng hạt mưa, thì những hình bóng cũ ấy cũng đã là một sự mất mát, muộn màng thật cảm động. Vì thế, anh đã ngăn được ý nghĩ của mình khi muốn gợi ra một câu hỏi về những lá thư anh trao tận tay nàng, về những điều nàng đã biết tại sao anh yêu nàng, và trong đó nữa có một tấm lòng của nàng đối với ba mẹ anh ở xa, khi đã có những lần nàng ghé qua trạm bưu điện bỏ giúp những lá thư anh gởi về nhà.

            Ngồi chuyện trò cũng khá lâu, trời đã tối, đường phố sáng đèn. Thụy cùng đi bên cạnh nàng một đoạn đường, tới ngã tư gần đó hai người dừng bước.

            Thùy ngước mắt, nàng nói:

-Bao giờ cũng vậy, gặp lại nhau là biết kỷ niệm vẫn còn nhớ.

            Và lúc này đây, Huê còn nhắc Thụy nhớ đến khuôn mặt viên Trung úy trưởng trại và chữ ký của ông nằm trong khuôn dấu đỏ. Thụy vẫn nhớ cái bắt tay rất chân tình cùng lời từ giã ông nói, trong đó, ngày mai anh sẽ đi xa không hy vọng gặp lại ông nữa. Ông rất quí mến Thụy, và riêng anh đã có sự đóng góp làm tờ Đặc San cho một khóa học, tuy gấp gáp vì  thời gian quá ngắn nhưng thể hiện được điều ông mong muốn.           

-Anh có món quà dành cho em.

-Đâu nào ?

-Anh để bên nhà.

-Anh cho em món quà gì ?

-Một tờ Đặc San anh và các bạn làm ở quân trường.

-Hay qúa, chịu khó về mang qua cho em.

-Sáng mai, anh đem qua cho.

-Không. Về lấy đi anh.

            Thụy biến mất như cái bóng. Thúy ra mở cửa khi nghe có tiếng chuông.

-Anh đi đâu về ?

-Đi với người bạn.

            Thụy đi nhanh lên gác, vội vàng mở túi xách lấy tờ báo. Rồi anh vụt chạy xuống cầu thang lúc ấy,  trong nhà cũng đang vui tiếng chuyện trò của mấy người bạn dì Hồng ngồi ở nhà sau.

            Huê vẫn một mình trong phòng khách trống vắng. Khi thấy Thụy trở lại, nhìn vẻ mặt anh nàng không thể nhịn cười. Thụy đặt tay lên vai nàng, giữ  lâu trong chốc lát.

            Hai người ngồi xuống bên nhau trên chiếc ghế xô pha rộng. Thụy cầm chén nước trà đưa lên miệng uống từng hớp. Ý nghĩ về ly cà phê dậy chút men, anh ngồi im mắt không rời khỏi những ngón tay Huê đang giữ lấy từng trang báo. Khi thấy bài Thụy ký tên, nàng ngừng lâu. Nàng chợt mỉm cười, Thụy nói:

-Có em trong đó.

            Huê đọc thêm một đoạn, rồi lật trang. Tờ giấy vàng đục, chữ đánh máy đen đậm trong đó mang dấu vết ngày tháng in sâu nỗi buồn nhân thế. Thụy chẳng hề tâm sự với ai, nhưng anh đã viết. Anh viết về Huê, trong bóng dáng và tên gọi của nàng anh đã lẫn lộn biết bao nhiêu điều chỉ muốn nói về một người bạn gái của mình. Và, ngồi đây bên cạnh một cô gái không phải là người yêu, Thụy nghĩ rằng mình đang trốn khỏi một cuộc chiến. Thụy rất ngạc nhiên, vì nó đã vây hãm cuộc sống của anh những ngày trước đây đến đỗi sống ở Sài Gòn anh vẫn lo sợ, nhất là, nhận diện rõ ràng qua quần áo mặc của mình.

            Huê gấp tờ báo lại, cô nói:

-Hay quá, anh đã thực hiện được tờ báo này.

-Chỉ trong vòng mười ngày.

-Anh kể chuyện mấy tháng ở quân trường cho em nghe.

-Ngày nào anh cũng tắm nắng và đổ mồ hôi.

-Anh quá lãng mạn.

            Thụy rót thêm đầy tách nước, rồi đưa qua cho Huê.

-Cám ơn anh.

            Thụy cầm tờ báo lên xem qua. Đồng hồ trên tường đổ chuông. Rồi sau đó, anh và Huê hai người giúp nhau chuẩn bị bữa ăn tối. Khi ở trong căn nhà trống vắng, ánh đèn điện sáng lên đó là sự ấm cúng, điềm đạm, vừa chừng mực, đó cũng là một dấu hiệu về lương tri. Chàng và nàng như là hai anh em ruột thịt sống bên nhau trong những ngày ở xa gia đình. Cách đây hơn một giờ, Thụy ngồi với Minh ở quán ăn bên khu chợ Thái Bình. Thụy và Minh, hai người gặp lại nhau sau một năm. Ở Đà Nẵng Minh vào Sài Gòn, không phải mong học tiếp mà tìm kiếm việc làm. Rồi hắn đổi ý, và hắn còn đợi chờ mười ngày nữa đi chuyến bay quân sự lên Đà Lạt đặt chân vào trường Võ Bị.

            Dứt một giây hồi tưởng, Thụy hỏi Huê:

-Em có nghĩ tới hạnh phúc cho mình trong tương lai.

-Em vẫn sống bình thường, tự nhiên.

-Anh luôn luôn nghĩ đến hạnh phúc của em.

-Bây giờ không có gì cả là hay nhất.

-Thật vậy sao ?

-Anh có chọn nghiệp văn cho đời mình không ?

-Em hãy chọn cho anh.

-Em không biết .

-Anh cảm thấy vui khi em còn ở Sài Gòn.

            Có bóng người đi qua bên ngoài. Thụy cảm thấy nôn nao muốn nói với Huê:

-Không, sự ràng buộc đời tôi là Thúy Hà. Tôi yêu nàng, vì tôi nghĩ nàng đã sống với tôi trong bao nhiêu tình cảnh người vợ qua những kiếp luân hồi. Trên miệng lưỡi, hễ gọi tên nàng là tôi nhận ra dư vị cay đắng lẫn ngọt ngào.

            Thụy để lộ ra một bộ mặt si dại, ngớ ngẩn. Huê buông đũa, cười lớn tiếng, tiếng cười dồn đổ nghe như là một trận mưa. Trong người Thụy nóng ran lên như cơn sốt, ngay lúc đó, anh để ngửa lòng bàn tay.

            Vậy rồi, buổi tối đó qua đi mà chàng cũng đã che giấu hết sức vội vàng. Chàng được ở bên cô gái đến nửa đêm. Hai người chơi đánh bài. Chàng luôn chú ý những con bài cơ hồng đỏ hình trái tim, nó rạo rực trên mấy ngón tay của Huê.

            Bỗng tiếng cô gái nói:

-Thôi, anh về đi. Đã khuya rồi.

            Chàng không muốn nghe giọng ái ngại ấy làm gì. Rồi không thể nào cô tránh kịp, chàng đã ôm gọn lấy thân cô gái, rồi thật yên lặng  cô để cho chàng đặt môi hôn, nhưng một lúc sau chàng nghe tiếng cô khóc. Cô gái khóc,  chàng nói những lời dỗ dành, vừa nghe tiếng hạt mưa và tiếng mình nói xúc động hòa tan vào hương vị thơm của mùi tóc.

            Về nhà, Thụy thao thức không ngủ được. Anh cảm thấy mình hối hận và nghĩ đến Thúy Hà. Sau đó, anh gặp nàng trong giấc mơ. Bên cánh cửa, nàng bồng đứa con trai nhỏ. Anh đứng yên lặng sau lưng nàng một lúc rất lâu, bỗng nhiên, trên tường vôi trắng anh  trông thấy nàng ngồi một mình xõa tóc. Không biết nàng tìm thấy ai đó trong dĩ vãng.

            Sáng hôm sau thức dậy, Thụy vẫn còn nuối tiếc giấc mơ. Anh không lo âu, sợ hãi, nhưng nghĩ rằng Huê vẫn còn khóc. Nàng khóc vì ức chế, chứ không có gì giận dỗi ai cả. Thụy lại rời nhà, cùng đi với Lăng suốt ngày. Hai đứa đi xe đạp, đến thăm gia đình họ hàng. Ai cũng thấy anh thay đổi, trông vẻ mặt đầy nghị lực, tin tưởng vào cuộc sống. Và, những lời khuyên chân tình của bà con làm anh xúc động, tự hứa với mình cố gắng trở lại với sách đèn.

            Qua tuần lễ sau, Thụy trở lại nhà dì Hồng và đi qua nhà Huê. Anh mạnh dạn bước lên bậc thềm, vừa gọi tên, vừa bấm chuông.

            Huê ra mở cửa, thấy anh nàng hỏi:

-Đi  đâu cả ngày nay ?

            Thụy  nhìn đồ đạc đang bỏ lung tung trên bàn ghế.

-Em đang làm gì ?

-Ngày mai em dọn nhà.

            Thụy cầm lấy tay Huê.

-Anh còn muốn gì nữa ?

-Anh rất nhớ em.

-Bày vẽ ra.

-Em cần  anh giúp em một tay không ?

-Thích làm giúp thì nhảy vô.

            Thụy để  Huê sắp xếp quần áo, còn sách vở, mấy thứ linh tinh anh dọn giúp nàng. Cô gái nói:

-Em cũng thật bê bối với những thứ đồ đạc của mình.

-Ngày mai thì sao ?

-Giúp cho tôi một tay.

-Em không dịu ngọt chút nào cả ?

-Người em hay nổi nóng, lên cơn lắm.

-Còn anh lúc nào cũng thèm đi xa. Có em, anh thấy lòng mình vui.

-Anh liều với em, không chỉ một lần đâu.

            Giọng Huê rất giản dị, lắng sâu. Thụy  không đáp lời, chỉ thu xếp những thứ còn lại vào túi xách.

            Trước khi rời nhà, buổi sáng Huê mời Thụy uống cà phê. Khi Huê hỏi chuyện về sự liên hệ của anh với dì Hồng, anh nói rõ hơn.

-Em là bạn thân của Thúy.

-Anh biết.

            Một giờ sau, Huê và Thụy cùng đi chuyến xe lam đến nhà người chị. Người mẹ đi vắng, hai đứa nhỏ vòng tay chào đón khách. Huê có căn phòng riêng ở nhà dưới. Thụy giúp nàng dọn dẹp căn phòng.

-Công việc này làm anh luôn nhớ đến em.

            Thụy vừa nói, vừa đặt khung ảnh của nàng treo ngay ngắn trên tường chỗ có đặt bàn học. Khi đã có được chút nồng nàn với cô gái, lúc nào trong lòng bạn cũng đầy ắp hương vị của tình yêu. Treo bức ảnh xong, Thụy lùi lại một bước nhìn đăm đăm bóng dáng người đẹp. Trong lòng anh ,  nắng ấm chan hòa, ánh sáng của ngày vừa đổi mới.

            Xong việc dọn nhà, Huê mời Thụy đi ăn cơm trưa. Thụy không đói lắm, nhưng từng giây phút được ở bên cạnh nàng là một dịp anh sống với cuộc đời hạnh phúc khi có được tình yêu. Yêu một người con gái, và được gần gũi nàng vui tiếng chuyện trò, dù cho chưa gì với nhau cả, mình cũng cảm thấy được tình yêu. Huống gì, vào buổi tối ấy, sự đâm liều của anh nó may mắn như một người trúng vé số.

            Nhà Huê ở trong khu bàn cờ, gần đấy là khu chợ, và đi ra đầu đường là gặp phố chính. Dọc con phố, nhà nào cũng là cửa hiệu buôn bán, quán ăn, quán giải khát. Quán ăn của người Hoa luôn đông khách. Hai người ngồi phía dãy ngoài mái hiên, Huê cầm menu gọi món ăn, và anh có hơi ngạc nhiên khi cô gọi cả bia nữa.

            Thụy lên tiếng:

-Ông cho một chai bia lớn, hai ly.

            Không đợi lâu, bữa ăn dọn ra ngay sau đó ít phút. Cả cơm và thức ăn nóng tràn hơi khói. Thụy cầm chai bia rót vào ly Huê   trước xong đến mình.

            Thụy bảo Huê cầm ly lên, cụng một cái trước khi uống. Và, anh nói:

-Rượu bia này uống chơi.

            Nàng nhìn lại anh hỏi:

-Khi nào mới uống thiệt ?

-Đâu biết. Chuyện của em mà.

            Huê nói:

-Em không cám dỗ anh đâu.

-Không , thì thôi.

            Bữa ăn trong sự yên lặng. Nhưng không có gì đáng tiếc xảy ra cho hai người. Sau bữa ăn, Thụy đưa Huê  về nhà rồi chia tay.

            Không biết đi đâu, và cũng chưa muốn về nhà, ra tới trạm xe buýt gặp xe anh bước lên và theo chuyến xe về tới bến.

            Sài Gòn luôn đông vui. Một mình lang thang trên phố, hai mắt người lính trẻ luôn nhìn xa gần, chung quanh, và trong ý nghĩ luôn ước mong gặp một ai quen để nói ra những lời tâm sự.

            Trên vỉa hè Lê Lợi có rất nhiều bán sách báo cũ. Qua mỗi sạp, Thụy dừng lại trong chốc lát. Anh mua được mấy cuốn sách , và một số tạp chí Sáng Tạo cũ. Thụy cứ đi hết con đường lên tới nhà hát thành phố. Và rồi, anh vòng qua bên đường đi ngược trở lại dọc theo hè phố, đến quán Mai Hương ghé vào gọi một ly cà phê đá

Người ngồi trong quán hút thuốc nhiều làm anh bị sặc khói. Nhưng, anh vẫn đốt thuốc để uống cà phê. Ngồi trong quán ai cũng nhìn ra con đường rất đông người đi dạo trên phố chính. Những tà áo dài của các cô gái đi ngang qua làm dịu mát buổi chiều. Những tà áo thật đẹp, đem cho mỗi người một niềm vui, và có cả sự buồn nhớ nữa. Trời sắp tối, Thụy ra về. Quán vẫn đông khách, và bắt đầu ồn lên cùng với tiếng nhạc, lời ca, vọng từ  dĩa hát.

            Về nhà dì Hồng, Thụy gặp Lăng. Hôm nay là ngày giỗ của mẹ dì Hồng. Thụy nói lời xin lỗi dì rồi đi dốt hương. Khi anh trở vào, cô Thúy nhìn anh với cặp mắt dò xét. Ngồi quanh chiếc bàn tròn có Lăng, dì Hồng, và Thúy, Thụy nói chuyện về những ngày nghỉ phép đã qua.

            Sau đó, bữa cỗ dọn lên. Chuyện trò vui, anh hăng hái nói chuyện về đời lính, về tương lai của một chuyên viên Không Quân mà anh tin tưởng là sẽ đem lại nguồn vui cho cuộc sống của mình.

            Thúy nói:

-Anh đi lính rồi trông trẻ hẳn ra.

            Thụy cảm thấy nhẹ nhõm vì có được sự dịu nhẹ mối nghi ngờ trong mắt Thúy.

-Anh khỏi lo chuyện quân dịch nữa.

-Rồi anh có đi học lại không ?

-Thong thả, qua năm tới.        

            Thụy hỏi qua Lăng:

-Có định về thăm dì không ?

-Không. Tuần đến tôi đi Đà Lạt.

-Đi chơi.

-Không. Tôi đi dạy

            Không hiểu sao, Thụy chợt có cảm giác mình đang bị thành phố bỏ rơi.

-Lên trên đó ở luôn.

-Không, sang năm tôi về.

 

 

                                                                  VI

 

 

            Trước khi bắt đầu vào năm học, Thiên Nga dành hai ngày đi theo Nguyên ra Quảng Trị thăm làng quê bên nội và bên ngoại của chàng. Hai người chỉ đem chung cái túi xách với vài bộ quần áo để thay, khăn mặt, bàn chải đánh răng, một ít thức ăn khô và trái cây trong hộp, đây là phần lương khô hàng tháng của Nguyên. Nga cũng đem theo cọ, mực màu, giấy vẽ, đặc biệt là chiếc máy ảnh hiệu Canon. Nguyên vẫn thích mặc đồ lính cho tiện. Nga không mặc áo dài, nàng chọn chiếc sơ mi sọc xanh, quần jean, đội nón vải và đeo kính mát. Nàng thật đẹp trong dáng dấp áo dài tím thướt tha, và cũng thật trẻ trung, nhanh nhẹn trong lối mặc áo quần của lớp thanh niên.

            Xe lửa rời ga lúc 8 giờ sáng. Trời dịu mát với quang cảnh đầu thu lãng đãng những bóng cây, ánh sáng buồn dịu dàng, và trên bầu trời có những cánh chim một mình bay xa.

       Với tốc độ rất đều, đoàn tàu chạy qua cầu, qua sông, rồi những cánh đồng ven miền quê. Nga rất thích thú nhìn quang cảnh, nàng đang ở trong vòng tay ôm ấp của người yêu. Nguyên thích trò chuyện, anh có nhiều câu chuyện kể thật là thú vị.

            Nga chợt hỏi:

-Tại sao anh bỏ Sài Gòn về ngoài này ?

-Anh ở trong đó lâu năm rồi.

-Thì ở Huế, không là nơi anh ở lâu à.

-Ở thành phố này rất là dễ chịu. Hơn nữa, giờ đây anh có em.

-Hôm chúng mình gặp nhau ở quán cà phê, tình tứ quá phải không.

            Nguyên hỏi:

-Trong hai người, theo em, ai biết mình được để ý trước.

            Nga đáp lời ngay không suy nghĩ:

-Anh.

-Thật vậy sao ?

-Anh không tin.

-Ờ.

-Anh không tin em yêu anh sao ?

-Tin chứ. Nhưng em nói thật không ?

-Vậy chứ theo anh ai được chú ý trước ?

-Em.

-Thật là cảm động.

-Anh ghi lại được ngay phút giây đó gương mặt em dịu hiền, mái tóc đẹp, và nụ cười thật dễ thương.

-Chết em mất.

            Nguyên tìm lời chỉ trong vài giây, anh lên tiếng:

-Bây giờ em cho anh nói thật không ?

-Anh nói đi.

-Anh cám ơn em, nhiều vô kể.

-Ít thôi, nhiều quá cất không hết.

-Để anh nói rõ thêm.

-Anh cứ nói.

-Vừa tan buổi văn nghệ, anh mong gặp em nhưng vì gặp người bạn có chuyện trao đổi lâu, lúc ra đến ngoài, anh tìm không thấy em đâu cả.

-Cuối cùng, ai cũng ngạc nhiên.

-Đêm hôm đó, trăng sáng lạ lùng.

-Đến khuya, trên con đường vắng chỉ có tiếng bước chân chúng mình.

-Anh nhớ mãi tên em, và mong được gọi đó là tên của thành phố.

-Lớn quá, gọi bằng tên của dòng sông nghe gần gũi hơn.

-Em đã bảo anh, em có tên Rose nữa, đúng không ?

-Em rất thích hoa hồng. Khi hoa tàn, em không nở vứt đi mà hái cánh hoa ngâm vào trong chậu nước.

-Em thực là con người nhân hậu.

-Anh nói sai rồi, phụ nữ có lúc rất cần phải dữ, rất cần la lối om sòm để cho kẻ khác sợ.

-Em nghĩ, nếu anh có làm điều gì lỗi với em, thì làm sao ?

-Anh đứng trước mặt em, vòng hai tay xin lỗi.

            Nguyên chợt dụi mắt vì bụi than. Những đám khói tàu ngược chiều gió cuồn cuộn bắn bụi than tung tóe bay vào các toa xe. Lúc ấy, Nga rút chiếc khăn trong ví ra và Nguyên nhắm lại để nàng lau bụi bên khóe mắt.

            Sau ít giây, Nguyên mở mắt hơi khó chịu một chút. Bụi tan, Nga lấy chai nước lọc rót vào cái ly nhựa đưa cho Nguyên uống. Nguyên uống thong thả từng ngụm đầy.

            Phía ngoài cánh đồng, một đàn bò đi dưới nắng. Nga hỏi:

-Hồi xưa, ông ngoại anh làm quan lớn không ?

-Ông ngoại làm tri phủ. Anh là con trai đầu của mẹ, và cũng là đứa cháu được ông ngoại thương nhất.

-Thực không ?

-Ông ngoại làm tri huyện Nga Sơn.

-Hay nhỉ. Nghe như có tên em trong đó nữa.

            Nguyên bắt đầu kể rành mạch chuyện được theo mẹ lên tàu từ Đông Hà ra Thanh Hóa, được ở chơi cả tháng trời.

-Ngày anh về, ông ngoại nhớ lắm.

-Ông ngoại có đến hai bà vợ phải không anh ?

-Ai kể cho em nghe, chắc là mẹ.

            Nga gật đầu. Nguyên nói:

-Bà ngoại đầu, tên Nga.

- Tên nghe hay. Hai bà của ông ngoại thương nhau không ?

-Hai chị em ruột.

-Lạ không .

-Ngày xưa, có chị thì phải có em. Ở đời ông cố anh cũng vậy.

-Vậy nữa sao .

-Anh rất thích cái tích xưa trong chuyện Trầu Cau.

-Em rất thích bài hát đó.

            Ngày xưa có hai anh em nhà kia cùng yêu thương một người.  Nga cất tiếng hát, nàng vừa hát, đầu vừa ngả xuống cánh tay Nguyên với cả mái tóc mềm mại. Nguyên lắng nghe những câu cô gái đang hát.

            Khi cô ngưng lời ca, Nguyên hỏi:

-Bên trường Mỹ Thuật cũng phải học năm dự bị.

-Có chứ anh. Sinh viên phải học đủ bốn năm mới tốt nghiệp.

-Em có mơ cuộc triển lãm về những tác phẩm của mình.

-Đó là giấc mơ của em.

-Anh cũng có giấc mơ giống em.

-Không giống đâu.

            Nàng mỉm cười, và khi Nguyên có ý định cúi xuống hôn, nàng hé môi. Nguyên hôn xuống khuôn mặt, và trên cặp môi mọng ướt của nàng thật lâu. Một giọng đậm đà, còn thơm ướt nụ hôn, Nguyên nói:

-Hôm nay là một ngày vui. Ngày vui này còn mãi.

-Mùa hè đã qua nhanh, Thiên Nga nói.

            Tàu vừa ngừng. Nguyên không nhớ đây là ga nào. Nhà ga nằm bên kia đường, phía dưới cây cầu. Ngước mắt nhìn lên, hai người cùng trông thấy vài ngôi làng và con sông. Bên ngoài trời nắng đầy, nhưng ở phía ngôi làng hiện ra vẻ êm ả của những hàng tre xanh.

            Làng tôi xanh bóng tre, có tiếng chuông nhà thờ rung, Thiên Nga hát lên một câu rồi hỏi Nguyên:

-Anh nhớ tên bài hát không ?

-Không nhớ, nhưng đó là dòng nhạc của Văn Cao.

-Anh nói đúng.

            Chỉ ngừng năm phút, tàu chuyển bánh. Khi trông thấy bảng tên nhà ga, Nguyên nói:

-Còn một ga nữa thôi, mình xuống.

            Tàu bắt đầu chạy nhanh. Cánh đồng vẫn trống trải, như đang cố vươn mình theo. Luôn luôn, những cảnh vật không muốn dừng. Ở cảnh vật, người ta thích quan sát để nghe riêng niềm tâm sự. Đó là một thoáng buồn Nga chợt nghĩ tới.

            Nga vẫn ở trong vòng cánh tay êm ái của Nguyên. Nàng có cảm giác tiếng Nguyên nói, ý tưởng trong đầu Nguyên, mỗi thứ ấy là những nét mới mẻ của mùa màng, thời tiết. Và, trong trí tưởng nàng, cả một bức tranh có thể vẽ ra được đang hình thành.

            Tàu chạy nhanh, nhưng không đến mười lăm phút, lại  trở về tốc độ chậm rồi từ từ tiến vào ga.

-Mình xuống ở đây.

            Hai người cùng đứng lên và lấy hành lý để trên giá. Không có gì để quên sau khi kiểm soát, hai người rời khỏi toa.

            Hành khách xuống không đông. Nhưng ở ga này, tàu ngừng lâu đến mười lăm phút.

            Bóng nắng vạch một đường rất thẳng dọc theo lối đi bên đoàn tàu. Hành khách còn phải đi bộ một quãng xa mới đến cổng kiểm vé.

            Khi ra bên ngoài, hai người dừng bước nghỉ dưới mái hiên. Thiên Nga điều chỉnh máy ảnh xong, bảo Nguyên:

-Anh đứng bên này đi, em chụp cho anh một tấm ảnh.

            Nguyên đứng gần cửa sổ. Bên trong cánh cửa là căn phòng làm việc của trưởng ga.

-Nhìn đây, cười lên nhé.

            Hết phiên mình, Nguyên bảo Nga chọn chỗ đứng để anh chụp ảnh cho nàng. Nga rất là vui, luôn luôn cười. Nguyên chụp cho nàng ba tấm ảnh.

            Đoàn tàu đã rời ga. Hồi còi vang vọng, tiếng bánh sắt nặng nề , gió cuộn vòng những đám khói dâng lên cao.

-Mình phải kiếm một quán nào nghỉ chân.

            Nguyên nhìn tới phía xa, anh tiếp lời:

-Em nhìn phía đó thấy gì không ?

            Ít giây, rồi Nga mới nói:

-Thì cũng là nhà ở, đường sá, có gì lạ đâu.

-Chỗ ngã ba, bên trong là chợ.

            Hai người xuống khỏi thêm tam cấp, vội băng nhanh qua bên kia đường. Phía bên trên, nhiều con đường đất mở các lối tắt băng qua đồng ruộng. Ở một khu đất vắng, mọc lên một ngôi trường tiểu học. Ngôi trường, phía đầu hồi là lợp ngói, tiếp nối theo là những dãy phòng lợp tôn.

            Nguyên bỗng nói:

-Con bé Phương rất là nhiều chuyện, nghe em.

-Con bé vui tính.

-Thụy  viết thư về có hỏi thăm em.

-Thụy  viết thư cho anh.

-Không, nó viết về cho mẹ và con Phương.

-Không chừng, Phương đã kể chuyện về em.

-Con bé nó thích ai rồi, tha hồ thêu dệt. Bây giờ cả nhà ai cũng mến em.

-Riêng anh, hơn hết phải không ?

-Vẫn nhiều lúc, anh băn khoăn.

            Sau một lúc suy nghĩ, giọng ngập ngừng Nga nói:

-Má cứ lo cho em.

-Anh hiểu. Anh cũng chưa dám nghĩ quá xa. Nhưng mà thôi, thấy em vui là anh vui.

-Cứ nghĩ đến má, em thấy lo.

-Anh biết má rất là quan trọng.

-Ba em có vẻ thích anh.

-Anh cũng rất quí mến ba. Con người ba rất vô tư.

-Nói vậy là làm rể được rồi, phải không ?

-Hy vọng thôi. Với ba, anh chỉ thi viết, còn má là phải vào vấn đáp.

-Có một thời má đi dạy, nhưng rồi ít năm sau, xin nghỉ.

-Em thích dạy học không ?

-Thích lắm chứ.

-Tốt nghiệp xong, em xin đi dạy.

-Em cũng có ý nghĩ đó.

-Em dạy ở Đà Nẵng thì gần nhà, nhưng nếu ra ngoài đất Quảng trị này thì cả thành phố là dành hết cho em.

-Hân hạnh.

            Hai người vui chuyện và cùng tâm ý. Tới ngã ba, đường rẽ vào khu chợ chừng khoảng trăm mét. Không khí xôn xao, tiếng ồn trỗi dậy từ phía chợ và ngang qua các dãy quán hàng, cùng lúc, mùi vị thức ăn pha trộn bay ra từ các quán, nhưng cũng dễ phân biệt. Cô gái bắt đầu nhận ra tiếng nói nghe rất là nặng của người vùng quê. Giọng họ khác đôi chút với giọng của Nguyên. Nguyên sinh trưởng ở đây, nhưng anh đã theo gia đình ra thành phố, rồi đi vào Nam, rồi trở về Huế, bao nhiêu cuộc sống trong nhiều năm tháng ấy đã thay đổi tiếng nói và cả con người anh nữa.

            Giữa chợ cảnh buôn bán đang nhộn nhịp. Lối đi trở nên hẹp vì người đông và các quán hàng không chỉ cố định bên trong mà còn tràn lấn cả ra ngoài. Thế nhưng, bạn vẫn thấy có cảm giác dễ chịu đối với sinh hoạt chợ vùng quê. Thực ra, đây hẳn còn là quận lỵ số dân đông, có trường học, chùa chiền, nhà thờ, và đời sống rất gần với một thị trấn.

            Quán hàng ăn khá nhiều, hai người cùng cảm thấy đói. Nguyên đưa mắt tìm, chỗ nào cũng đông chật, sau cùng hai người đi tới cuối chợ, ở đó có một quán ăn rộng rãi. Bên kia quán, một căn nhà mở rộng mái hiên để hai bàn bi da cho thuê. Có cả bàn bóng bàn, đang trống, chưa có người chơi. Có một đám thanh niên đang chơi bi da. Không khí lặng im, hồi hộp.

            Vừa thấy khách vào , chị bán quán cất tiếng mời chào. Hai người ngồi xuống ghế thấp trước cái bàn dài bày chén, tô và đũa muỗng, bên cạnh hai nồi cháo và bún đang nóng lên khói.

-Có gì ăn đây ?

-Dạ thưa nhiều thứ, cháo bánh canh, bún rêu, bánh lá, bánh ướt.

-Em ăn gì ?

-Ăn bánh trước đi.

-Rồi ăn thêm cháo hoặc bún nữa..

            Nga gật đầu. Ơû phía trên có một quán cà phê mở nhạc, giọng ca sĩ Hoàng Oanh đang hát.

            Chị bán quán làm hai dĩa bánh đầy vun, trông ngon mắt. Bánh ướt vùng quê với nước mắm ớt, với chả, và có thịt heo xắt lát mỏng. Vị cay rất dịu làm cho nước mắm pha thật ngon. Nga rất vui ngay lúc  cầm đũa gắp miếng bánh đầu tiên. Bánh ướt ở vùng quê ngoài này hơi dày, nhưng thật dẽo. Loại bánh này có thể dùng làm bánh phở, hoặc pha màu thành mì Quảng. Có chả và thịt ăn ghém, mỗi thứ, Nga gắp một ít. Hai người vui với bữa ăn, không nói chuyện nhiều, nhưng rất hiểu ý khi đưa mắt nhìn nhau. Nguyên và cô gái, ai cũng có nét đẹp riêng trên cặp mắt. Ở Nguyên, đôi mắt đẹp của anh gợi cho các thiếu nữ  nghe ra được tiếng hát của chim, và những tiếng nói trong tình bạn. Ở đôi mắt cô gái, nụ cười là ánh sáng tỏa niềm vui, và khi cô có một nỗi buồn xa xôi, bạn sẽ thấy một màu nhung xanh của chiếc áo hiện về trên cặp mắt của cô. Và đôi mắt ấy, mang mang hoài nỗi nhớ của thời gian.

            Hai người ăn hết dĩa bánh, đã thấy no. Nhưng rồi, thấy chị bán hàng mời mọc món cháo bánh canh cá, mỗi người ăn thêm tô nhỏ. Nguyên nhìn sang quán bên cạnh gọi nước giải khát.

            Bên ngoài, buổi họp chợ vẫn đông. Tiếng nói của người vùng quê, Nga chỉ nghe lõm bõm, cô không hiểu được hết ý nghĩa của tiếng nói.

            Ngồi trong quán đã lâu, nhưng hai người chưa đứng dậy. Nga nhìn đồng hồ đeo tay mới biết là lúc này trời đã trưa.

            Bến xe lam nằm phía đầu ngã ba, có sáu chiếc ở đó đậu dưới bóng im đang chờ khách.

            Nga mở ngăn ví lấy tiền trả. Khi hai người dời bước đi, có mấy người trong quán đưa mắt nhìn theo, ai cũng khen đôi lứa tình nhân xứng hợp.

            Vừa tới bến xe, Nguyên bỗng nghe có tiếng gọi:

-Chú Nguyên.

            Ngay lúc đó Nguyên nhận ra anh Quang, con người o ruột ở dưới làng. Nguyên giới thiệu Nga với người anh. Anh Quang lấy làm vui, cười nói hả hê với mấy người bạn tài xế. Đột nhiên anh quay lại hỏi Nguyên:

-Chú và cô đi đâu đây ?

-Về thăm làng.

-Xe tôi sắp chạy.

            Anh Quang nhìn đồng hồ tay, xong ra phía sau đếm hành khách. Có một người nửa tới với hàng hóa, anh vội leo lên trần xe để chất hàng. Nga chú ý đến dáng vẻ bề ngoài của anh, chiếc quần tây đen, áo kaki nhà binh có cầu vai và hai túi, đầu đội nón lưỡi trai.

            Anh Quang cột hàng xong, từ trần xe bước xuống và dành hai ghế trước cho Nguyên và cô gái ngồi.

            Khi xe mới nổ máy, Nguyên hỏi:

-Mỗi ngày anh chạy mấy chuyến ?

-Bốn.

-Cũng được chứ anh.

-Ờ, tàm tạm thôi. Thường chuyến lên chợ buổi sớm, và chuyến cuối buổi chiều về đông khách hơn.

            Ngồi bên Nguyên, Nga  vừa cảm thấy xa lạ, vừa thân quen với nơi mình đến. Từ lâu nay, nàng với cuộc sống ở thành phố, và đây là lần đầu tiên nàng đi về làng quê của chàng. Tự dưng cô yêu mến, không hề có ý do dự, đòi hỏi.

            Xe lăn bánh bánh chạy một vòng cua quanh bến, ra đầu ngã ba, rẽ trái chạy trên con đường trồng cây thông , vượt lên dốc cầu, đổ xuống quận lỵ sau đó bắt đầu là con đường làng đất cứng, nhưng bằng phẳng, rộng rãi.

            Khung cảnh làng quê hiện ra thật yên bình, nắng mênh mông trải rộng qua những đồng lúa, bờ đê, và một con kinh đào rất sâu, rất dài, dẫn nước từ phía dòng sông đưa vào ruộng. Những nguồn nước dẫn ở sông vào chảy mạnh, dào dạt như dòng suối, và hình ảnh làm cô gái thấy lạ lùng, quan sát là những chiếc xe đạp nước.  Lúc này là giờ nghỉ trưa, nhiều chiếc ngừng hoạt động nhưng vẫn còn một vài chiếc có người đang đạp.

-Chú Nguyên còn viết báo không ?

-Cũng còn, nhưng không chuyên lắm. Tôi ra ngoài này rồi, không ở Sài Gòn nữa.

-Chú có gặp chị Số không ?

-Chị ở Biên Hòa. Tôi có đi thăm, lúc sau này, chị buôn bán cũng khá.

-Ở làng mình, người ta lần đi vào Nam hết.

-Đã lâu quá, nay tôi mới về.

-Bà vẫn còn mạnh.

-Tôi đưa cô bạn về thăm bà, thăm quê, ở một hôm nay ngày mai đi ra  Đông Hà về quê ngoại.

-Sao chú đi ít ngày vậy ?

-Không được nhiều ngày, cô còn trở vào đi học nữa.

-Cô người ở đâu ?

-Người Đà Nẵng.

-Hồi đi lính, tôi ở đơn vị tiếp vận trong đó.

-Anh được giải ngũ.

-Ờ, giải ngũ loại hai.

            Ruộng lúa hai bên nối nhau trải dài. Nhà ở các ngôi làng nằm sâu bên trong, có ít nhà ngói, nhiều nhà tranh, nhà nào cũng có sân phơi lúa, có vườn, và dọc con đường làng nơi nào cũng có trồng cây lấy bóng mát. Những ngôi làng kế cận nhau, nhưng cách vài cây số là có tên khác. Và mỗi nơi, cảnh vật cũng có chút đổi thay.

            Từ quận, con đường quan rộng chạy thẳng ra tới vùng biển Mỹ Thủy xa12 cây số. Nãy giờ, Nga chẳng lên tiếng chuyện trò với Nguyên và ông anh họ tài xế, nhưng nàng rất vui thích được nhìn cảnh đồng quê. Hàng cau, bụi chuối, giếng nước, những lớp màu ngói đỏ, ngói nâu, những ngôi nhà tranh, từng sự vật tưởng như đang sắp xếp thật  gọn một chuyến đi đường dù là ngắn, nhưng nàng  sẽ nhớ mãi về sau này.

            Hai chặng anh Quang ngừng xe cho khách hàng xuống. Con đường xe chạy cũng qua ba khúc quanh, hai đoạn dốc và bốn cây cầu gỗ.

            Xe dừng đầu chợ, Nguyên và cô gái xuống. Anh Quang xua tay khi Nguyên trả tiền nhưng Nguyên bắt anh lấy và tiền Nguyên đưa cũng rộng rãi.

            Anh Quang cám ơn và cho xe trở đầu. Thực sự, lộ trình xe chỉ dừng khách đầu ngã tư, nhưng vì là người trong gia đình anh đưa người em đến chợ để đi con đường vào làng cho gần.

            Nguyên nói với người yêu:

-Làng  anh ở đây.

-Mới là con đường thôi.

-Em nói đúng. Nhưng về tới làng, chỉ còn xa chừng vài trăm mét.

            Ngồi trong quán, một chị bán quán nhìn ra. Chị ta lên tiếng:

-Mua quà bánh đi anh.

            Nguyên liền đi vào quán mua hai ốp hương. Khi trở ra ngoài, vừa đi ít bước Nguyên nói:

-Làng quê anh rất nghèo.

-Anh làm em cảm động.

-Có em về thăm, bà nội chắc mừng lắm.

-Không phải đâu, anh đừng tưởng em không hiểu ý anh.

            Một giọng vui, Nguyên nói:

-Nhưng cảnh làng quê nghèo, nó được thi vị hóa cái đẹp, phải không Nga?

-Vậy nên, đám nghệ sĩ, anh nào cũng nghèo.

-Họ là những người rất có tâm hồn.

-Bài hát nào về làng quê anh thích nhất ?

-Bài Quê nghèo.

-Cảnh quê giống như làng anh, đúng không ?

-Không, mà giống miền quê ngoại.

-Quê ngoại nghèo lắm sao ?

-Không, nhưng hồn bài nhạc làm anh nhớ đến quê ngoại nhiều hơn.

-Anh nhớ bài nhạc không ?

-Anh không nhớ hết.

            Con đường nhỏ hẹp, có bóng im, cát thật mịn màng dưới bước chân. Nga có ngay được cảm giác này khi cô tháo đôi dép xách tay để được bàn chân êm đi trên cát. Bên cạnh đường, dưới hàng nứa thấp là con mương nhỏ, nước rất trong.

-Thiên Nga  ơi, tiếng Nguyên nghe lạ tai.

-Trời đất,  em đây mà, anh sợ em đi mất sao ?

-Không, anh muốn nói với em. Ngày Tết, ở miền quê ngoại rất vui.

-Ngày Tết, đâu mà không vui .

-Nhưng quê ngoại mới là niềm vui cho em. Anh vừa nhớ ra câu hát trong bài nhạc: Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời áo dài đùa trong tiếng cười.

            Nga reo lên:

-Em hiểu ý anh. Đó là câu hát ca ngợi cảnh ngày xuân,  không ở nơi đâu hay bằng.

            Rồi một giọng xa vắng, nàng tiếp lời:

-Hồn quê như nắng mùa xuân. Hồn quê cũng đẹp như  một tấm áo dài.

 

 

 

                                                           VII

 

 

 

            Với túi xách nhẹ đeo vai và chiếc va li nhỏ đựng áo quần sách vở, Lăng từ giã Sài Gòn. Khi xe buýt ghé trạm ngừng ở lề đường bên ngoài bến xe Pétrus Ký, chỉ có mình Thụy và Lăng xuống.

            Thời gian còn sớm, hai bạn ghé vào quán ăn sáng nằm trong khu vực bến xe. Trời đã sang thu, buổi sáng dịu mát.

            Hai tô hủ tiếu lớn, ăn no. Rồi gọi tiếp hai ly cà phê sữa nóng. Đốt xong điếu thuốc, Thụy nói:

-Tôi sắp đi Nha Trang.

-Anh đổi ra làm việc ngoài đó ?

-Không, tôi đi học khóa chuyên môn.

-Lâu không ?

-Ba tháng. Tôi lại được về Sài Gòn .

            Nhìn lại Thụy qua một nụ cười, Lăng nói:

-Anh đi lính mà sướng hơn làm quan.

-Tôi học chuyên môn để lấy bằng ăn phụ cấp, xong tôi cũng không đi ngành này mà sẽ biệt phái trở lại làm cho báo Lý tưởng.

            Cà phê nóng ấm, ngon miệng. Nghĩ về chuyến đi, Thụy thấy Lăng không vui. Một giọng dè dặt, Thụy hỏi:

-Năm sau thi lại, chỉ vấn đáp thôi hay cả viết nữa.

-Tôi thi vấn đáp hai thôi.

-Rồi cũng nhanh, năm sau về lại Sài Gòn.

            Ngồi không lâu, xong bữa ăn sáng Thụy trả tiền và đi cùng Lăng tới chỗ xe đậu. Trên đường đi, Thụy nhắc tới anh Nguyên, và cũng tiện cho Lăng biết về cô bạn gái của anh Nguyên tên  là Thiên Nga ở Đà Nẵng.

-Anh đã có gặp rồi ?

-Chưa. Nhân kỳ nghỉ phép tôi nghe Phương nói.

-Anh và cô Huê, hai người tới đâu rồi ?

-Không có gì cả.

            Nói xong, Thụy lại tiếp lời giải thích là Huê chưa thực sự có người yêu như nàng muốn. Thế nhưng, anh được ở bên nàng như một người bạn hiểu nàng, và nghe nàng nói những lời tâm sự. Vừa rồi, Huê thi đậu khóa hai, ý định sẽ ghi danh học ở Văn Khoa. Từ hôm Huê dọn nhà đến nay, thỉnh thoảng anh tới thăm, lúc trò chuyện ở nhà, lúc ra quán cà phê ngồi. Kể ra, vì chưa có gì với nhau cả, nên hai người rất thân mật một cách tự nhiên.

            Dừng lại bên dưới xe, Lăng lên trước xong nhận chiếc va li Thụy chuyền qua ô cửa. Sắp xếp chỗ để hành lý trên ngăn giá xong, Lăng ngồi xuống ghế ngoài, trong lúc chờ xe khởi hành hai bạn tiếp nối câu chuyện cho qua giờ.

-Chừng nào anh ra Nha Trang ?

-Cuối tháng này.

-Lâu nay, anh có truyện nào đăng báo không ?

-Có. Tôi hay gởi truyện đăng ở báo ngày và tuần báo.

-Nhuận bút khá không ?

-Ít thôi, nhưng đăng ở mấy báo đó dễ dàng.

            Không đợi đến mười phút xe chạy. Thụy đọc thấy một nỗi buồn trên cặp mắt của Lăng, bỗng dưng cảm thấy đó là người bạn thân thiết nhất của mình.

            Nắng đã lên cao, và trải rộng dần trên khắp các khu phố.

            Hôm nay là thứ bảy. Sài Gòn cách Đà Lạt 300 cây số, xe đò hay rước khách dọc đường, thời gian cũng phải chạy mất hơn bảy tiếng đồng hồ mới đến nơi. Và dù vậy, Lăng cũng có được một tuần lễ nghỉ trước khi vào năm học mới.

            Xe buýt đỗ khách tại bến chính ở khu chợ Bến Thành. Giữa cảnh tượng ồn ào, huyên náo trên các ngả đường, Thụy chẳng biết mình đi đâu, và làm gì đây cho qua hết một ngày.

            Những quầy sách cũ, rạp hát, quán cà phê đã vội vàng biến mất khi Thụy vừa nghĩ đến sự tìm kiếm.  Nơi thành phố cũ ấy, áo trắng là hương thơm tinh khiết của mùa hoa lan. Vừa bước đi, Thụy muốn vẽ lại trong trí nhớ mình thành phố đó. Với những dòng sông, bao nhiêu cây cầu, và mùa thu đã trở lại. Thụy nghĩ đến giọng nói, đôi mắt của Liên An. Bây giờ đây, anh thật hết sức cố gắng tìm sao cho thấy được một bóng dáng Thiên Nga nguyên mẫu ngoài đời. Ký ức về nàng, dù là qua sự mường tượng nhưng vẫn có thể xây dựng nên một câu chuyện tình. Trong năm học ấy, Thúy Hà mới 17 tuổi. Trước khi đến thành phố nàng ở và gặp nàng, Thụy đã trải qua một mùa thi đầy ân hận, cay đắng. Về thời gian sau này, anh học hành có tiến bộ, trở thành học sinh khá trong lớp, vậy mà anh không được cái vận may trong mấy ngày thi cử nên bị rớt hai khóa liền. Thật chết người ở lần thi khóa nhì, anh qua được loạt I, nhưng rớt loạt II, vì thiếu một điểm. Chiều hôm ấy, trời xứ Huế buồn dưới cơn mưa nặng hạt. Dưới mái hiên văn phòng trường Quốc Học, có hai cha con đứng đợi thầy giám thị xem điểm giúp. Một lúc khá lâu, thầy trở ra, và khi nhìn dáng thầy đi chậm bước mắt nhìn xuống tờ giấy, Thụy linh cảm chuyện không may cho mình. Quả thực, anh hỏng thi. Trên vuông giấy xanh, những môn thi của anh được ghi điểm, rồi một giọng bình thản người thầy hỏi Thụy có được điểm thể dục không ?, anh đáp không, lặng người đứng chôn chân một chỗ. Sự hối tiếc và ân hận, đã muộn rồi. Tại sao mình không nghĩ rằng, ở môn nhiệm ý này chỉ cần có dự thi, dù không đạt tiêu chuẩn về nhảy rào, nhảy cao, nhảy dài, leo dây các huấn luyện viên cũng châm chước cho các thí sinh một vài điểm dư để cộng thêm vào kỳ thi. Hôm đó, thực sự Thụy có đi theo các bạn cùng lớp từ trường Bình Linh xuống sân vận động trường Quốc Học, nhưng lúc sắp vào cuộc thi, anh chợt nghĩ lại một lần chơi đá bóng bị té ngã gãy xương vai, nếu lần này, thi nhảy qua rào, nhảy cao và nhảy dài, lỡ té ngã, xương cũ của anh sẽ bị nứt khó chữa lành. Thụy mang nỗi lo sợ ấy, do dự một lúc, và rồi không biết chuyện gì đã xui khiến anh rời khỏi sân vận động ra về. Trên đường đi, Thụy cố tự nhủ, tuy không có điểm thêm của môn thể dục mình vẫn thừa khả năng thi đậu.

            Nhưng sự coi thường này, Thụy đã trả một giá đắt, nặng nề, không chỉ mất một năm học lại mà còn nhìn thấy tương lai bấp bênh, còn nữa, một chuyện phải lo thêm giấy tờ xin hoãn dịch. Và, có một lối thoát dạo đó Thụy không nghĩ ra, đó là việc đổi tên và làm giấy khai sinh sụt tuổi. Chuyện này không khó, vì ba anh chỉ việc ra ngoài quê nói bác anh là thôn trưởng làm cho một giấy khai sinh mới, rồi đem trình tòa án tỉnh xác nhận là xong, và qua được chuyện này, anh sẽ cảm thấy yên tâm học hành.

            Thật tình Thụy không nghĩ ra được cách giải quyết này là vấn đề quan trọng cho đời mình. Nhưng rồi, Thụy lại vẫn tiếc rẻ cho cái bằng Thành Chung mình thi đậu, nhờ nó, anh mới lên tinh thần và thấy ham học. Thụy còn  nghĩ thêm, với bằng Thành Chung anh có thể thi Sư phạm cấp tốc, sau một năm ra làm giáo viên tiểu học, đồng lương cũng không đến nổi quá kém, thiếu hụt. Rồi, nương cái nghề giáo làm chỗ dựa, lần hồi, anh học thêm, trễ tràng lắm từ một đến ba năm anh cũng lấy xong được bằng Tú Tài.

            Mùa thi ấy đã qua. Những cây phượng trên các ngả đường trong thành phố, hoa vẫn còn đỏ. Những ngày đợi mùa thu sắp về, tâm trạng những người học sinh rộn rã lắm, nhưng Thụy cảm thấy mình chán nản gần như tuyệt vọng. Thụy muốn rời xa Huế, đi Sài Gòn. Thụy thèm trở lại thành phố này, và nếu được, anh sẽ tìm kiếm một công việc làm có đồng lương rồi đi học lớp buổi tối. Thụy ngỏ lời tâm sự với ba anh, nhưng ông im lặng, không quyết đoán. Rồi hôm ấy, dì Bích Vân ở Đà Nẵng ra làng quê nhân tiện ghé thăm, nhân lúc đó mẹ anh hỏi xin ý kiến dì, được dì bằng lòng chấp thuận.

            Dì Bích Vân về thăm quê một tuần mới trở lại. Rồi, Thụy đi theo dì vào Đà Nẵng, đến nhà dì ở đường Trưng Nữ Vương. Một tuần lễ sau, Thụy mới làm đơn xin nhập học trường Sao Mai.

            Trường Sao Mai là trường tư thục công giáo lớn nhất thành phố. Ngôi trường tọa lạc trên một diện tích đất khá lớn, các phòng học đều rộng, thoáng đãng, phần đằng sau gồm nhiều dãy nhà dành cho các lớp tiểu học và đệ nhất cấp. Nơi phần sau này, còn có sân chơi bóng chuyền , vũ cầu, và một trạm phát thanh. Ở phần trước, một tòa nhà lầu ba tầng, có hội trường, sân thượng, nơi này, cổng chính nhìn ra công viên của bến Cảng. Và toàn thể của tòa nhà được dành cho các lớp đệ nhị cấp.

            Trường Sao Mai bậc đệ nhị cấp có đủ các lớp Đệ Tam, Đệ Nhị và Đệ Nhất. Thụy nhập học trễ, thầy giám thị ghi tên anh vào lớp Đệ Nhị B1, đây là lớp vào giờ ngoại ngữ được tách ra, nhập chung với lớp của ban A.

            Thụy không hay biết , đến buổi sáng thứ sáu sau hai giờ đầu, vừa nghe chuông báo giờ chơi hơn một nửa lớp bên anh đã vội ôm tập rời phòng. Thụy hỏi ra, mới hiểu, và anh đã ngồi lại yên chỗ để chờ giờ học môn tiếng Pháp.

            Giờ chơi mới bắt đầu. Sự đổi lớp ồn ào, lộn xộn nhưng Thụy không bị chia trí. Thụy lấy tờ báo Tiếng Chuông mở ra đọc. Thụy đọc một truyện ngắn dự thi đăng ở trang tư. Bỗng dưng có sự linh cảm, anh ngẩng đầu nhìn ra cửa thấy một cô gái xuất hiện. Hai người cùng ngạc nhiên, nhìn thấy anh chú ý, cô gái liền dừng bước. Thụy có ngay một hình ảnh toàn diện về cô, trước tiên là dáng người thanh nhã qua chiếc áo dài nâu, mái tóc xõa xuống kín vai, sau đó, là vẻ đẹp của một đôi mắt nhỏ như hai vị sao dừng rất lâu trên một gương mặt tỏa ra ánh sáng. Lúc ấy, cô gái tỏ ra nghiêm trang, nhưng mắt cô vẫn nhìn anh. Thụy thầm nói với cô về sự bối rối, nỗi ngại ngùng của mình. Ít giây thôi mà tưởng thật lâu, cô gái dời bước rẽ lối trái, đến dãy bàn thứ nhì, xong cô đặt chiếc cặp xuống. Sau đó, Thụy không còn nghe rõ gì nữa tiếng cô nói với một người bạn ngồi cạnh bên cô.

            Thụy đang bâng khuâng, cố gắng trở lại sự bình thường. Thụy lại cúi xuống đọc báo, đến đoạn gần cuối truyện lúc đoàn tàu vừa chuyển bánh rời ga thì hồi chuông báo hết giờ ra chơi vang lên.

            Thầy giáo vào lớp, đặt chiếc cặp da lên bàn. Thụy nhìn người thầy, hỏi nhỏ anh bạn, được biết là thầy Huynh. Vị thầy có mái tóc muối tiêu, chải rẽ gọn gàng. Trên gương mặt sạm đen, hằn đọng nhiều dấu vết suy tư, và cặp mắt nhỏ của thầy ẩn bên trong chiếc kính trắng lớn.

            Hôm nay, chúng ta học bài mới. Thầy Huynh nói xong, mở rộng cuốn sách bìa xanh của tác giả Mauger, giới thiệu một đoạn trích giảng văn rút từ trong tiểu thuyết Courrier Sud của nhà văn Pháp, Antoine de Saint Exupéry.

            Phòng học của lớp khá rộng, có một bức tranh và chiếc đồng hồ treo tường. Từ phía những cửa sổ bên trái, không cần phải đứng lên, ngồi ở bàn phía ngoài có thể trông thấy rõ hết quang cảnh đường phố, khu công viên và mọi sinh hoạt trên bến Cảng.

            Thầy Huynh đứng trên bục giảng đọc đoạn văn, tiếng đọc chậm, lời nghe du dương, cảm khái. Vừa đọc, thầy vừa dùng động tác bằng tay lúc đưa ra, lúc kéo vào để biểu thị những sắc nét hùng hồn hay êm ái của đoạn văn. Và chừng sau mười lăm phút, thầy đọc xong.

            Trước khi giảng, thầy nói qua về tiểu sử tác giả. Saint Exupéry là một nhà văn phi công. Bước vào nghiệp bay, ông làm phi công chở thư cho những chuyến bay đường dài, tới các xứ vùng Nam Mỹ. Có chiến tranh, ông nhập ngũ, là Đại úy phục vụ ở một phi đoàn tác chiến. Trong thế chiến thứ nhì, ông bay loại  phi cơ thám thính, trước năm cuộc đại chiến kết thúc, ông bị mất tích trong một phi vụ tình báo trên vùng lãnh thổ nước Đức chiếm đóng. Có tin là ông bị địch bắn hạ, nhưng cũng có tin máy bay của ông bị hỏng máy rơi xuống biển. Người ta chỉ ghi nhận là ông bị mất tích, do máy bay lâm nạn.

            Ngoài nghiệp bay mà ông gắn bó, ông còn là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Những tác phẩm quan trọng của ông gồm có: Bay đêm (Vol de nuit), Chuyến thư miền Nam (Courrier Sud), Terre des homes (Cõi người ta) Pilote de guerre (Phi công thời chiến) Citadelle (Thành Trì) Le petit prince (Cậu hoàng con)

            Người thầy đã nói về cuộc đời một nhà văn phi công bằng một giọng thật cảm khái, hùng hồn. Riêng Thụy, anh cũng đã có một lần ước nguyện được trở thành phi công. Năm học vừa qua, nếu Thụy lấy được bằng Tú Tài I, anh cũng rất muốn tính chuyện gia nhập vào Không quân đi theo ngành phi hành.  Nhưng, ước mơ này đã vuột khỏi tầm tay, rồi nó cũng không còn làm anh mong đợi nữa. Nhà văn Saint Exupéry cũng làm anh nhớ đến một tác giả khác nữa, nhà văn Toàn Phong với cuốn truyện Đời Phi Công. Đây là một  tập tiểu thuyết gói ghém những lá thư bốn phương trời của một chàng  sinh viên nước Việt gởi về cho một cô em gái nơi quê nhà. Cô gái, tên Phượng, tên của một loài chim hiếm quý. Thụy đã đọc xong cuốn sách này trong một ngày chủ nhật trên căn gác. Đọc xong, anh thật mến yêu và cảm động về tình đất nước của chàng trai. Còn với cô Phượng, không chỉ bao nhiêu hương sắc và nét đẹp của cô dành cho chàng trai thôi, mà có cả mình trong đó nữa. Rồi như đâu, một lần ấy tương tư, cô hỏi Thụy, bạn đã tìm thấy được ai là Phượng ngoài đời chưa. Thụy khẽ lắc đầu, chợt mỉm cười nghĩ đến một lứa đôi hạnh phúc đó là chàng trai của tác giả và cô gái đây thôi. Từ dạo đó, Thụy thích đọc nhiều tiểu thuyết. Khi một nhân vật nữ xuất hiện cho mình một tình cảm rung động, anh thường hay đem hình ảnh đó trong tiểu thuyết ra hiện diện trước cuộc đời. Nhà văn Nhất Linh viết cuốn Đôi Bạn thật là hay. Những chiếc lá bàng lay động, phất phơ trong ký ức của một người Hà Nội đang nhớ nghĩ về thành phố xưa của mình. Thụy rất thật lòng đối với cô Loan. Thụy cũng đã biết Dũng Nhất Linh rất yêu cô. Khi xa cô, Dũng chỉ gói ghém một mình cô trong tấm lòng áo trắng. Nhà văn Nhất Linh luôn gắn bó cuộc đời mình với những nhân vật ông đã sáng tạo ra tiểu thuyết. Thụy còn thích một cuốn truyện khác nữa của ông, đó là Bướm trắng. Khi đọc xong cuốn truyện, không một chút ngại ngần Thụy nói ngay với tác giả rằng, anh đã yêu cô Thu. Nhất Linh suy nghĩ, đôi mắt đen sâu, ông ngồi im như pho tượng. Ôi, cô ấy thật tuyệt vời. Nhìn cô trong dáng vẻ một thiếu nữ mặc áo xô tang, thật là đẹp buồn rất não nùng. Rồi lúc được gần bên nhau, cô để cho Thụy say đắm nhìn cô, và rất tự nhiên cô ngồi nghe anh nói những lời tỏ tình.

            Tiếng giảng bài của thầy Huynh chậm đều, rất rõ, và lôi cuốn từ mỗi tác động hai bàn tay và trên đôi mắt. Tiếng Pháp thầy đọc, vang âm như nước dòng suối. Thụy vừa lắng nghe những lời giảng bài của thầy, nhưng vẫn chưa muốn rời khỏi tên các cô gái Geneviève, Phượng, Loan, Thu, là những bóng hình rất đáng yêu trong tâm tưởng.

            Trên tấm bảng sơn xanh, người thầy khởi sự viết những dòng đầu tiên của đoạn văn trích giảng. Cả lớp yên lặng, ghi chép. Đoạn văn khá dài, dòng cuối kết thúc là lúc phi cơ cất cánh rời khỏi phi trường.

            Với dáng người cao, bước đi trầm lặng, cái bóng áo trắng của người thầy qua lại trong lúc học sinh chép bài.

            Không đợi lâu, người thầy khởi sự ngay bài giảng, lúc này, phần chính yếu về văn phạm, rồi nghĩa chữ khó và các thành ngữ. Hết giờ đầu, có tiếng chuông ngắn đổi giờ, nhưng lớp học vẫn tiếp tục buổi học. Khi kết thúc xong bài giảng, thầy cho cả lớp mười phút chuẩn bị phần bài dịch. Rồi, lần lượt thầy gọi một vài học sinh đứng lên dịch từng đoạn ngắn. Mỗi khi thầy gọi người nào, Thụy đều chú ý, lắng nghe tên. Bỗng nhiên, Thụy thấy tim mình đập mạnh lúc thầy gọi tên cô gái. Hướng mắt nhìn về cô, anh chờ đợi trong cảm giác nôn nao. Cô cất tiếng đọc đoạn văn, rồi bắt đầu dịch. Thụy nghe được tiếng cô rất trong trẻo, và đoạn dịch văn thật suông sẻ. Thụy cũng thấy thầy Huynh lắng tai chú ý nghe những lời dịch của cô. Thầy gật đầu nhẹ, lúc cô vừa dịch xong, thầy quay về phía bảng gạch bên dưới những thành ngữ và giải thích thêm một số nghĩa mới.

            Từ bên này, mắt Thụy không rời bóng dáng cô. Thụy tự nhiên cảm thấy vui trong lòng. Và thực sự, anh yêu mến cô gái rất nhiều với những hình ảnh đầu tiên của cô mà anh đang cố tìm cách lưu giữ. Vì rằng, cô đã xâm chiếm hồn anh bằng màu nâu nhạt của chiếc áo dài,  bằng đôi mắt nhỏ bé, bằng tất cả sự duyên dáng của bước đi qua mái tóc mượt mà kín xõa hết xuống hai vai. Bao nhiêu nét ấy, còn gợi ra cho anh mường tưởng một bức tranh vẽ chân dung rộng lớn, nó mang ấn tượng về cuộc đời bằng một sự trầm lặng, xưa cũ. Nhìn thật lâu, bạn sẽ còn thấy ở cô thêm nhiều nét lạ lùng , nổi bật là một khuôn mặt dịu dàng tỏa sáng, rồi trong cặp mắt nhỏ đẹp như hai vị sao những nụ cười xanh lấm tấm tưởng đấy là tiếng chân chim vui đang nhảy nhót . Sự yêu thương  dành cho cô gái biết bao nhiêu mới đủ, khi mà cô thực sự mong rằng, luôn luôn cô là nỗi nhớ trong lòng của bạn và tôi. Nỗi nhớ , không chỉ thoáng trong một phút, một giây, hoặc một ngày giờ gần như đáng kể, mà đấy là cả tháng năm ưu phiền, mỏi mệt, suốt đời như con nước trầm lặng chảy theo dòng sông.

            Thời gian còn chừng mười lăm phút nữa, tan buổi học. Thầy Huynh có một vài câu chuyện nói với cả lớp. Thụy nghe, nhưng không thể rời mắt khỏi cô gái, và rồi cô bắt gặp cái nhìn của anh. Hiểu được lòng anh nên cô đã nguyên vẹn cả một gương mặt cho anh  có được một sự yêu thương hết đời mình.

            Bất chợt, thầy Huynh gọi Thụy đứng dậy. Cả lớp nhìn anh, và có đôi mắt cô gái nữa.

-Em là học sinh mới ?

-Dạ.

-Em tên gì ?

-Em tên Thụy.

-Trước đây, em học ở đâu ?

-Dạ, ở Quảng Trị.

-Gia đình em từ ngoài đó, vào trong này ?

-Dạ, không. Em vào đây một mình.

            Thụy bắt đầu ái ngại, không dám nhìn đâu cả. Thầy Huynh nói:

-Tôi có một thời gian dạy học ngoài đó.

            Thụy đứng im. Lúc này, lòng anh dịu lại và được đón nhận từ đôi mắt cô gái nhìn sang , vừa giữ ý. Một giọng thân tình, thầy Huynh nói với lớp học về những kỷ niệm trong năm đất nước mới chia đôi, và ngôi trường đầu tiên thầy dạy học ở tỉnh Quảng Trị.

            Hồi chuông reo lên, kéo dài đã cắt  đứt hết câu chuyện và những kỷ niệm thân thiết của thầy đối với tỉnh Quảng Trị, nơi ấy là quê hương của Thụy. Sau này, anh ít khi trở về thăm lại chốn cũ.

            Thầy Huynh vừa khuất dạng, cả lớp ồn dậy lên tiếng cười nói, đùa nghịch vang vọng ra bên ngoài. Nhưng một mình Thụy vẫn yên lặng, anh bước nhanh xuống cầu thang, đến hội trường rẽ trái, rồi đi ra cổng chính. Và, chỉ dừng trên vỉa hè một phút rồi băng qua đường, anh đứng lại dưới bóng cây im nắng trong khu công viên rộng rãi, mát mẻ, rải rác trên các ghế đá có người ngồi nghỉ chân, chuyện trò. Phía ngoài con sông mặt nước mênh mông, tràn ngập nắng, và đây là bến cảng trong thành phố. Có nhiều tàu lớn nhỏ đang neo đậu và rất đông thủy thủ đứng trên boong tàu.

            Trưa, nắng bắt đầu gắt. Từ nơi này, Thụy  có được cái nhìn bao quát các con đường mà học sinh đi ra phía cổng sau hay cổng trước đều trông thấy. Thụy mong tìm được cảm giác nhẹ nhõm, buông thả hết những mơ mộng về tình yêu gởi nàng. Thụy đã có hai năm học ở Đà Lạt, thành phố ấy là ánh nắng hồng của mùa hoa anh đào. Cũng ở đó, những ngày mưa, buồn rất da diết. Thụy đến nơi thành phố ấy để đi học, rồi có cơ duyên, anh khởi sự viết câu chuyện tình của mình và một cô bạn gái cùng trường. Nhưng mà thôi, đừng có chia trí, lan man, hãy ngóng đợi một hạnh phúc đẹp sắp mang đến cho đời anh.

            Bây giờ học sinh đang dồn ra đông. Trên cặp mắt, Thụy chỉ ngóng tìm một bóng dáng áo nâu. Buổi học chung hai giờ cuối để lại trong lòng anh hình ảnh cô gái, vừa xa lạ, nhưng cũng thân thiết vô cùng. Bỗng nhiên, anh chợt buồn khi nghĩ đến số phận mình. Nhưng thôi, nàng cũng đã biết tên anh, vậy anh hãy cố thu hết sự can đảm nghĩ về một tình yêu có nàng, rồi một ngày của bao nhiêu năm sau, hai người trở thành bạn đời.                                    

            Cơn gió hất nhẹ thân chiếc áo dài nâu bay lên. Từ cổng trước đi ra, bên cạnh nàng  có ba cô bạn nữa, hai cô mặc áo trắng, một cô mặc áo màu lam. Bốn thiếu nữ thong thả bước. Nàng đi phía ngoài, lúc này, Thụy để mắt theo dõi bóng nàng, lòng vừa nôn nao sợ, vừa thầm mong nàng bắt gặp mình đang đứng đợi chờ. Tới ngã ba bốn cô  cùng dừng bước, rồi ít phút sau chia tay. Lòng Thụy thực sự vui khi thấy bóng chiếc áo nâu về một mình. Thụy bỗng muốn cất tiếng gọi Thúy Hà hoặc liều lĩnh chạy về phía nàng trong cảm tưởng như mình là một cậu bé đang xúc động được gặp lại người chị đã xa cách lâu ngày.

            Bên đây con đường, yên lặng Thụy bước theo. Thụy nghĩ nàng đi bộ chắc nhà ở gần trường. Thụy hẳn còn ghi nhớ đôi mắt ngạc nhiên của nàng khi nhìn thấy anh là học sinh mới, hôm nay mới là buổi đầu tiên biết nàng. Ở đây cũng như nhiều tỉnh khác, các trường học  khai giảng đã qua hai, hoặc ba tuần nay. Thụy xin nhập trường cũng như vào lớp muộn, vì nỗi buồn hỏng thi của anh trong mùa hè qua vẫn chưa khỏa lấp nổi. Thụy đành học lại một năm để thi, và thay vì, chọn trường ngoài Huế anh lẩn vào đây và được ở trọ nhà dì Vân , chị em họ với mẹ anh.

            Khi tới căn nhà sơn cửa xanh, đây vừa là cửa hiệu bán nước hoa nàng đi vào. Thụy chợt dừng bước, không đi nữa. Qua khỏi bức màn sáo, nàng khuất dạng. Nỗi buồn làm nóng ấm trên cặp mắt, Thụy nhìn con đường Độc Lập trải dài qua những hàng cây bên đường. Thụy vẫn đứng yên chỗ, nhìn lại căn nhà của nàng bên kia có những cánh cửa sơn xanh, bức màn sáo nhiều màu, trong tủ kính những chai nước hoa lớn nhỏ sắp thành hàng, sau đó khi thấy một bóng người đi lên căn gác làm anh mường tưởng không biết bao nhiêu kỷ niệm quyến luyến về sau này, nếu rồi đây anh sẽ được quen biết nàng.

            Sau một hồi còi ngắn, con tàu tách bến. Gió ngoài sông lùa qua mặt nước,  tràn vào những con đường trên khu phố một thứ hương vị muối ngây ngất, mát mẻ.

            Khi buổi trưa đã bắt đầu xuống thật yên tĩnh, Thụy mới  theo cái bóng đơn độc của mình về nhà. Sự cô đơn khiến anh  nghĩ ngợi nhiều. Thụy chợt cảm thấy  nỗi đau nhức chuyện hỏng thi chỉ vì thiếu một điểm. Thụy đâm ra giận mình, sao mà buổi sáng đó không chịu khó ở lại thi thể dục, nếu mà anh có thi thì một điểm thiếu của anh sẽ được đền bù thật may mắn. Nhưng không, số phận xui khiến anh không dự thi thể dục buổi sáng đó. Hôm ấy vì lo ngại cánh tay trái đã một lần nhảy cao bị té gãy nên anh bỏ cuộc thi trở về nhà, nhưng rồi chẳng biết đi đâu, sau đó nghĩ lại anh đâm ra hối tiếc, lo lắng.

            Hình như, Thụy vừa linh cảm  bóng dáng chiếc áo nâu chợt thoáng hiện. Anh lại nhớ, vừa cố gợi ra sự dịu dàng, bao dung đầy thương yêu trên cặp mắt nhỏ bé của nàng. Ngày xưa ấy, nơi tận chân trời quê cũ  anh đã trông thấy buổi chiều in bóng áo  nâu của mẹ anh trên con đường đê khi về tới đầu làng. Anh đứng trước cổng nhà bà ngoại chăm chú nhìn cái bóng dáng xa gần lay động  hình ảnh mẹ anh. Và, lòng thương dào dạt xiết  bao nhiêu khi nhìn thấy chiếc đòn gánh trên vai người mẹ trĩu nặng xuống, anh muốn mình chạy, muốn mình bay tới phía con đê để được đón mẹ về, và lúc gặp mẹ câu hỏi trước tiên là quà bánh mẹ mua có nhiều không ?...như thế đó, giấc mơ nghĩ đến mẹ trên cánh đồng ruộng ở vùng quê  giờ đây đã cho anh được nhớ thương một cô gái, được trông thấy cô mà liên tưởng đến hình ảnh một người mẹ lúc còn trẻ. Chiếc đòn gánh nặng trĩu xuống vai, vì mẹ anh mua nhiều hàng trên chợ tỉnh. Gió chiều thổi qua đồng ruộng, qua con sông, thời xưa ấy thật là yên bình. Bỗng dưng, Thụy nghe ra một giọng nhỏ nhẻ với tiếng mừng vui, cô gái bảo anh cứ rán chút nữa, đã sắp về gần tới nhà rồi.

            Mùa hè năm ấy, lần đầu tiên Thụy đi xa khỏi tỉnh Quảng Trị. Thụy đi  với Huân, bạn thân học cùng lớp và ở cùng xóm quanh khu vực nhà ga. Nhà gần  ngay ga, nhưng đôi bạn thiếu niên thích đi bằng xe đò khởi hành lúc trưa,  tới Huế đầu buổi chiều. Tại bến ở đây, hai đứa mới mua vé xe suốt . Thụy vào tới Nha Trang, còn Huân sẽ xuống quận Ninh Hòa.

             Sau hai giờ đợi, lúc số ghế bán hết xe ca mới khởi hành. Huế-Đà Nẵng cách nhau khoảng 100 cây số, xe chạy nhanh, nhưng lên tới đỉnh đèo Hải Vân phải ngừng chờ nửa giờ để chuẩn bị đổ đèo. Tới Đà Nẵng, xe vào đậu bến chính và lúc đó trời đã bắt đầu tối. Xe vừa ngừng, trước khi hành khách xuống tìm quán ăn, quán giải khát,  cả người chủ xe và tài xế cùng loan báo cho mọi người biết là vì đường mất an ninh nên ở lại  tối, sáng mai xe sẽ rời bến sớm. Nhân dịp này, Thụy và Huân rủ nhau dạo phố.

             Từ bến xe đi bộ, mỗi quãng lại hỏi đường vào phố chính. Rồi hai đứa dừng bước  bên một ngã tư , mắt  vui lên vì được  nhìn thấy dãy phố nào cũng trưng đèn sáng, các cửa hiệu buôn và tiệm ăn đều mở cửa đông người ra vào. Trên vỉa hè, tiếng giày, tiếng guốc khua dậy, và tiếng nói những người đi qua lại nghe cũng hơi lạ lùng.

             Thụy và Huân rảo loanh quanh một vòng xong ghé vào tiệm cơm, mỗi đứa gọi một dĩa cơm gà, một chai bia 33 khổ lớn rót đầy hai ly. Ở trong một thành phố lạ, cùng với chuyến đi xa lần đầu  hai bạn nhỏ trò chuyện với nhau một cách thích thú như người lớn. Quảng Trị, tỉnh nhỏ bé thân thương giờ đây hãy để quên, hãy cho mỗi đứa trẻ một chút ước ao về chuyến ra đi, về một ngày mai đẹp của thời niên thiếu ắp  đầy cả giấc mộng phiêu lưu.

            Sau bữa ăn hai đứa  góp chung tiền trả, rồi tiếp tục dạo phố và lúc trông thấy có tiệm bi da vắng khách, cả hai vào đánh chơi ba cơ vừa đúng một giờ. Thụy đánh thắng Huân  cơ chung kết, hơn cách biệt bốn điểm, tuy vậy lúc trả tiền lại cùng góp chung.

            Trời đêm  mát dịu nên đôi bạn còn đi chơi. Khi qua rạp hát Tân Tân , Thụy rủ Huân ghé vào xem biển quảng cáo, xong mua vé để coi cuốn phim Le bal des maudits . Rạp hát rộng rãi, đông khán giả. Hai bạn ngồi dãy ghế giữa hạng nhì, vừa tầm mắt. Niềm vui dậy dàng lên từ lúc buổi sáng sớm với chuyến đi xa, giờ được nghe vang âm qua giọng nói của mình. Cả Huân nữa, nó cũng mang niềm hãnh diện như Thụy. Ngày nào đó trở về, mỗi đứa sẽ kể lại bao nhiêu kỷ niệm vui thích trong chuyến đi này cho bạn bè nghe.

            Ánh đèn chìm tắt, một điệu nhạc trỗi lên dìu dặt và khi nghe âm điệu vang ngân, trải dài Thụy chợt thoáng nghĩ đến một dòng sông đang trôi chảy miên man.

Le bal des maudits, tên cuốn  phim chạy hàng chữ lớn rồi dừng lại  ít giây trên màn ảnh rộng. Sau đó, lúc tiếng nhạc nhỏ dần, mắt Thụy chú ý đọc tên các tài tử đóng phim.

            Vào phim, nhạc đệm cùng những tiếng động nghe dồn dập. Khi đoàn  xe quân đội Đức Quốc Xã dừng lại giữa con đường đèo bên trên là cánh  rừng, một viên Sĩ quan rời ghế bước xuống, gương mặt trẻ trung của tài tử Marlon Brando gây cho Thụy một ấn tượng khó quên. Nơi ánh mắt, gương mặt và những nếp nhăn trên vầng trán anh ta như muốn biểu lộ một sự phi lý về chiến tranh. Ngay sau đó, có tiếng súng đạn nổ, những tốp lính  Đức cao lớn, nhanh nhẹn nhảy ào ra khỏi xe chạy  băng vào khu rừng thực hiện cuộc truy lùng, càn quét địch quân. Bỗng dưng, trong rạp hát mọi người cùng lo sợ, nín lặng theo dõi từng bước chân rình rập, từng gót giày đe dọa của chiến tranh.

            Khoảng nửa giờ sau, Thụy mới nhận ra một cách lờ mờ về ý nghĩa cuộc chiến, nhưng có rất nhiều cảnh tượng mang những suy tưởng triết lý anh đã không hiểu mấy. Chỉ còn hình ảnh Hope Lange, nữ tài tử trẻ đẹp là muốn dành riêng cho anh một kỷ niệm thân thiết, hay đó là nỗi nhớ tưởng , tựa giấc mơ. Thụy  bị rung động bởi tiếng nói của nàng với người yêu, và trong lặng yên cùng với bóng đêm trên đường phố mắt anh cứ nhìn theo  đôi tình nhân đang chậm bước bên nhau lúc đến quảng trường có xe buýt đậu, họ mới rời nhau.

             Sau cùng, mọi người chợt nghe hai tiếng súng nổ, Marlon Brando, viên Sĩ quan kiêu dũng xuất hiện khi cuốn phim vừa mới bắt đầu, giờ anh ta bị trúng đạn do hai người lính Mỹ nhắm bắn, cái chết của anh trong tuyệt vọng, nhưng mà đẹp, vì khi ngã gục anh được ôm ấp lấy bờ đất, lấy cát và sỏi đá bên dòng suối. Thế rồi, chiến tranh kết thúc với tiếng chim hót ca bên rừng. Và, người lính Mỹ đi chinh chiến được trở về, nguyên vẹn trở về hạnh phúc bên người yêu.

            Cuốn phim dài đến  hai tiếng đồng hồ . Khi ra khỏi rạp hát, đường phố về đêm khuya vắng vẻ, Thụy và người bạn có vẻ lạc lõng, ngơ ngác. Thụy còn cảm thấy nỗi buồn vẫn đọng lại, không muốn loãng tan. Và, anh cũng đang  gom góp  những hình ảnh còn nhớ trong vài đoạn phim, đó là gương mặt của cô gái, đó là vẻ cuồng si của người  thiếu phụ khi yêu người bạn của chồng mình. Hai bạn lẳng lặng đi bên nhau với bóng đêm của mình tợ như trong cảnh phim. Vào lúc này, thành phố lạ bỗng làm Thụy nghĩ rằng cũng sẽ có một cuộc chiến tranh  đe dọa tuổi trẻ , thảng hoặc sẽ báo trước một điều gì đó về sau này, nhưng rồi, anh chỉ đơn giản nghĩ rằng cuốn phim đã xem là sự ghi nhớ một kỷ niệm cho buổi đầu của thời niên thiếu. Không biết, bạn anh  nghĩ gì ?, một chuyến xe sẽ khởi hành sáng sớm mai, hay niềm ước ao nơi Huân chỉ mong gặp lại chị Duyên là người thân duy nhất kể từ ngày hai chị em rời bỏ miền Bắc di cư vào Nam.

            Ba giờ sáng, xe lên đường. Hành khách còn dật dờ, thấp thỏm nhưng rồi khi xe chạy họ lại ngủ tiếp. Trong lúc Huân ngủ say, Thụy ngồi ghế ngoài mắt chăm chú soi rọi qua bóng đêm để nhìn quang cảnh dọc quốc lộ I . Từng đoạn đường xe lướt qua, cảnh vật đều cho anh một cảm giác mới lạ, nao nức với chuyến  đi của mình, và đến mỗi nơi xe ngừng anh cũng có ý nghĩ đây cũng là một chốn quê hương thân thiết giữa cuộc đời.

             Xe đò chạy rất mau trên đường còn vắng, chốc chốc ánh đèn lóa sáng mở một tầm nhìn xa, rồi thu ngắn lại, và lúc này ngoài tài xế cùng lơ xe ra, có thêm Thụy nữa là không ngủ. Mỗi thứ sắc màu nổi chìm nơi những chớp sáng, Thụy đều thu nhận hết. Xe qua thị xã Tam Kỳ trời còn mờ,  đến Quãng Ngãi  mới sáng hẳn. Tới đây, tài xế dừng xe ở trạm xăng đầu thị xã cho hành khách nghỉ mệt để rửa mặt, ăn điểm tâm. Thụy và Huân lúc xuống đi đến ngay chỗ xe bán  bánh mì mua mỗi đứa một ổ. Ăn xong còn thèm, hai đứa mua thêm một ổ cưa đôi, ăn vừa no bụng.

            Xe ngừng trong nửa tiếng. Sau khi hành khách lên đủ, tài xế cho xe lăn bánh và lúc ra khỏi thị xã là phóng nhanh tốc độ, vun vút lao đi  đến Qui Nhơn gần trưa. Không vào thành phố, xe ngừng trước một quán ăn bên ngã ba Diêu Trì. Hành khách lục tục xuống xe tìm chỗ tiểu tiện, rửa mặt, rồi cũng lo chuyện ăn uống cho xong bữa để tiếp tục lên đường. Thụy và Huân không thấy đói nên hai đứa chỉ mua nước uống, ngồi chơi dưới bóng cây trò chuyện với nhau.

             Bỗng dưng, từ nơi xa này Thụy đâm ra nhớ nhà, hình ảnh ba mẹ và các em cùng hiện lên một lúc trước mắt  khiến cho lòng anh chợt vui lên nhưng rồi sau đó cảm thấy buồn trở lại.

            Đầu năm 48, khi trở về vùng quốc gia ba anh lên dạy ở Cam Lộ. Một năm sau, ông được thuyên chuyển về thị xã Đông Hà. Đông Hà nằm bên cạnh ngã ba đường số 1 và số 9. Ở đây, thị xã vừa mới xây dựng, không khí nhộn nhịp trong công việc làm ăn, buôn bán.

            Nhà ga xe lửa và phi trường quân sự nằm về phía Tây, còn phía Đông là sông Hiếu Giang. Quê làng mẹ Thụy ở Xuân Thành, ngôi làng này nằm giữa đoạn sông Hiếu Giang. Từ quê mẹ anh đến biển Cửa Việt xa chừng ba cây số đường sông.

            Khi gia đình anh rời khỏi Cam Lộ dọn về Đông Hà, cuộc sống ổn định và  trở nên khá giả nhờ vào công việc buôn bán hàng vải của mẹ . Nhưng rồi, hình ảnh thị xã mới xây dựng xong, thời gian giúp cho công việc làm ăn của người dân cũng chỉ đến trong vài năm sung túc. Giữa mùa hè 1953, một trận lửa cháy kinh hoàng đã thiêu rụi  thị xã Đông Hà đốt tất cả nhà cửa hàng trăm gia đình thành tro than. Trước cảnh tượng này, người dân trong thị xã cũng như gia đình anh   thực sự sống trong cơn ác mộng .Về sau, lớn lên cùng với sự hiểu biết,  hình ảnh trận cháy ở Moscou trong tiểu thuyết lịch sử Chiến Tranh và Hòa Bình và trận cháy lửa rực trời ở Rome trong cuốn phim Quo Vadis làm Thụy  nhớ lại hết tuổi thơ của mình và hình ảnh những người thân thuộc  trong gia đình đứng chết lặng  trên  bờ sông, những cặp mắt đau đớn của biết bao nhiêu người dân  nhìn vào khu  trung tâm thị xã đang ngùn ngụt cháy trong biển lửa.

            Vậy mà chưa hết, trận hỏa họan chưa hoàn hồn thì ba anh lại có giấy thuyên chuyển đến nhiệm sở khác trong tỉnh Quảng Trị. Một lần nữa, gia đình anh lại dọn đi.

            Thụy đã được 9 tuổi, mới học xong lớp Nhì. Buổi sáng ấy, có một chiếc xe hàng ngừng đậu trước mặt nhà Thụy. Từ mái hiên, anh em Thụy đứng nhìn chiếc xe sơn màu xanh biển lấy làm vui vì sắp được lên xe đi. Người tài xế xuống xe đi vào nhà anh qua lối cửa hông. Trong nhà, có ba mẹ , cậu mợ Tuyên và người phụ giúp khuân vác đang uống trà nói chuyện.

            Một lúc sau, người tài xế trở ra xe. Ông ta nhanh nhẹn nhảy lên trần , đứng trên đó tay mở các cuộn dây thừng để cột đồ đạc và hành lý. Từ trong nhà, đồ đạc di chuyển chuẩn bị xong tối qua, lúc này lần lượt đưa lên xe.

            Buổi sáng sinh họat trong khu phố và khu chợ trước nhà anh đã bắt đầu ồn ào như mọi ngày. Khi thấy gia đình Thụy dọn đi, bên kia đường có nhiều người đứng  trông sang, chăm chú với vẻ mặt yên lặng. Ở đây, rất nhiều người kính mến ba anh, vì ông là thầy giáo dạy học, và cả thị xã chỉ có mỗi một trường tiểu học duy nhất ở gần nhà ga.

            Người tài xế bước lui tới trên trần xe với cuộn dây thừng to dùng cột hàng hóa. Ông ta sắp xếp gọn gàng, sau khi chất đồ đạc xong, ông phủ trùm một tấm bạt rồi kéo hai vòng dây ở hai đầu móc trần xe.

            Nắng sáng lên làm rạng rỡ cả khu phố. Tiếng chuyện trò, cảnh tiễn đưa bỗng rơi vào yên lặng. Thụy nghe  tiếng nói thật trầm của cậu Tuyên với ba anh, còn mợ Tuyên nắm tay mẹ anh.

            Anh em Thụy bước lên xe với mấy cái túi  nhỏ. Mẹ , chị Lài ngồi sau với anh và mấy em , còn ba anh lên ghế trước với tài xế.

            Khi xe lăn bánh, anh em Thụy cười nhìn nhau. Chỉ có hai người trong lòng đang buồn bã đó là chị Lài và mẹ . Nhưng rồi bỗng chốc, Thụy có cảm giác mình sắp sửa khóc. Về sau này, hình ảnh thị xã Đông Hà anh giữ lại trong ký ức như là một cuộn phim.

            Quảng Trị nằm về phía Nam, cách Đông Hà bằng đọan đường mười hai cây số từ tỉnh lỵ đến quê nội của Thụy.Thành phố này đẹp hơn, có nhiều nhà ở, nhiều con đường im bóng mát, thơ mộng nhất là con đường ven theo dòng sông hai bên có trồng  những hàng cây phượng, cây bồ đề, cây sao nối nhau đến khu Cổ Thành Đinh Công Tráng. 

            Nhà Thụy ở nằm bên dưới ga đối diện với tháp nước, nơi chỗ đó những chuyến tàu đi hay về cũng đều ngừng lại trong mười phút để lấy nước trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Vì quanh chốn này còn là vùng đất hoang , tràn đầy cỏ mọc nên nhà ở của gia đình anh mới có được một diện tích đất khá rộng rãi, phía trước nhìn ra con đường từ cổng ga đổ về phố Trần Hưng Đạo, phía sau là vườn trồng cải, trồng hoa, cây lưu niên và đào hồ nuôi cá. Bên dãy nhà phụ, một mái hiên lợp tôn rộng mẹ anh mở quán hàng hàng ăn, buổi sáng bán bún, cháo, trưa chiều là cơm.

             Nhà ga gần trại lính, mỗi ngày có đến bốn chuyến tàu ghé dừng nên quán hàng mẹ anh mở luôn có khách vào ăn uống. Năm 1954, đồng bào miền Bắc di cư vào Nam khi hiệp định Genève ký kết. Khởi sự từ năm này, dân số trong tỉnh tăng lên và kế hoạch định cư được mở rộng ra các vùng ngọai ô. Với đồng lương giáo viên tiểu học của ba anh, công việc bán quán của mẹ anh, lợi tức hàng tháng góp lại cũng ổn định, bình yên cho cuộc sống gia đình. Ngoài những buổi học ở trường, Thụy còn phụ giúp mẹ trong việc chạy bàn mang bữa ăn, thức uống phục vụ cho khách.

            Vì học kém và chậm, đến năm 1956, Thụy mới vô được trường công lập trung học.  Nhưng Thụy chỉ lên lớp sau năm đầu Đệ Thất, đến hết năm Đệ Lục anh không đủ điểm trong hai kỳ thi lục cá nguyệt phải ở lại, và trong năm học mới này anh và Huân quen nhau, trở thành bạn thân và cả hai mới cùng đi xa trong mùa hè này.

            Bỗng Thụy lên tiếng hỏi Huân:

-Mày ở với bà chị bao lâu ?

            Huân chợt cười bảo Thụy:

-Sao mày hỏi ngớ ngẩn. Tao đi với mày, đến hết kỳ nghỉ hè thì về.

            Thụy ngập ngừng một chút, rồi nói:

-Tao nghĩ mày ở không lâu, ra lại sớm nên mới hỏi.

            Hiểu được ý Thụy, Huân nói:

-Bác có nhờ tao khi nào về, thì đón mày.

-Nhớ nghe, không có mày tao phải đi một mình không có ai quen.

            Hết giờ nghỉ, tài xế gọi hành khách lên xe đi.  Từ đây, tài xế bắt đầu mở radio có chương trình nhạc vui cho hành khách nghe. Hai bạn nhỏ vẫn luôn cảm thấy nao nức với chuyến đi đường trường. Trong phút im lặng, hẳn Huân sẽ nghĩ đến căn nhà của chị Duyên nó cũng có đứa cháu nay lên bốn tuổi rồi, còn Thụy thành phố biển Nha Trang đẹp như thế nào, lớn như thế nào, anh đang hình dung vừa tưởng tượng nhìn thấy từng khung cảnh hiện ra trước mắt.

            Bất chợt, tiếng thằng lơ xe ở đằng sau hỏi vọng hành khách.

-Ninh Hòa đây, có ai xuống không ?

            Huân giật mình, tôi liền hỏi:

-Có xuống đây không ?

            Huân ngần ngừ, rồi đáp nhanh:

-Thôi, tao đi Nha Trang với mày. Bác đã nhờ, tao đưa mày đến nơi đến chốn.

            Thụy cảm thấy tin tưởng khi có người bạn bên mình. Xe tới Nha Trang đầu buổi chiều. Bến xe nằm trong thành phố. Những con đường rộng mở, vui trong ánh nắng hè và cảnh sinh hoạt thành phố thật là nhộn nhịp. Xuống bến, cùng với hành lý, Huân và Thụy đón xích lô  đến nhà bác Định. Bác Định là bạn thân với ba anh. Năm 1954, gia đình bác di cư vào Nam ở lại tỉnh Quảng Trị, bốn  năm sau mới vào Nha Trang. Ở xa, ba anh và bác thư từ nhau luôn.Với tình thân còn gắn bó, nên ba anh cho anh đi nghỉ hè Nha Trang đến ở với gia đình bác. Chừng độ một tháng rưởi thôi, Thụy lại trở về Quảng Trị, bắt đầu bước vào năm học mới cũng là năm chuẩn bị thi cử.

            Nhà bác Định ở khu Phước Hải, đầu đường Huỳnh Thúc Kháng. Ngoài phía ngã ba là đường Nguyễn Hoàng, dọc con đường dài này có nhiều dãy phố buôn bán, ngôi nhà thờ lớn ở trung tâm, từ nhà ga những chuyến tàu đi cũng như đến đều cũng phải chạy theo đường ray nằm sau lưng nhà thờ. Về tới nơi,  thực may hai đứa gặp cả gia đình bác Định và được đón tiếp niềm nở. Thụy giới thiệu Huân với hai bác, còn Nhị con  bác là bạn học cùng lớp với Thụy và Huân. Nhị gặp lại hai bạn thực vui, nhưng chỉ chuyện trò hơn nửa tiếng Huân vội xin kiếu từ để ra Ninh Hòa. Thụy cùng với Nhị tiễn Huân ra bến xe, vì còn ham vui, cả ba đứa vào quán chơi bi da hết một tiếng đồng hồ mới chia tay.

            Những ngày tháng hè đó thật là hạnh phúc. Tuần lễ đầu, Thụy chưa vội ghi tên lớp hè để học mà cứ hưởng cái thú đi chơi. Hai chiếc xe đạp không rời Thụy và Nhị Buổi sáng sớm, hai đứa đạp xe ra biển, tới bãi gởi xe xong là ào xuống tắm. Mùa hè, từ sáng sớm đến chiều tối, bãi biển lúc nào cũng đông vui, ấm áp với ánh nắng và mặc sức vẫy vùng, vượt sóng. Biển Nha Trang thật đẹp, bãi cát trắng, màu nước biển xanh vời vợi tạo một niềm hưng phấn làm hai bạn càng muốn bơi ra xa. Sau hơn một giờ tắm  biển , hai bạn lại đạp xe đi nơi khác. Thụy được Nhị dẫn đi thăm các thắng cảnh Tháp Bà, Hòn Chồng, Hòn Vợ, Xóm Bóng, và còn ra tới những vùng ngoại ô xa đến lúc mặt trời lặn mới trở về nhà.

             Nhị sành sỏi chơi đàn, Thụy cũng học đàn với Nhị. Khi đánh đàn, hai bạn cùng hát những bản nhạc vui học ở trường, những bài hát về sinh hoạt hướng đạo hay trong những kỳ cắm trại. Nhưng mỗi tối, bác Định luôn bảo Thụy và Nhị vào bàn học lo luyện hai môn Toán, Lý Hóa. Sau tuần lễ đầu vui chơi thoải mái, cả Thụy và Nhị mới cùng ghi tên lớp hè ở trường Tương Lai. Hai bạn trình độ học ngang nhau, về môn Toán Thụy trội hơn Luân nhưng Lý Hóa, Nhị lại khá hơn, vào giờ học hai bạn giúp nhau nên tiến bộ khá nhanh.

            Ra Ninh Hòa ở với bà chị được hai tuần, nhớ bạn, Huân lại vào từ sáng thứ sáu đến chiều chủ nhật mới trở ra lại. Hội ngộ, ba đứa kéo nhau đi phố, vào rạp hát coi phim cao bồi, sau khi vãn hát, lại đi lòng vòng quanh các phố, hay vào Câu lạc bộ thể thao chơi bóng bàn, bi da. Ba đứa thi đấu đều ngang ngửa, luôn tạo nhiều pha bóng tấn công gay cấn hay những đường cơ bi da so kè, suýt soát từng điểm.

            Những ngày hè của Thụy thật là hạnh phúc và quí giá như mỗi điểm có được ở bài thi. Căn nhà bác Định, ngoài nơi chốn ở bình thường nó còn cho anh hiểu cái đức hạnh chân chính về giá trị con người. Bác Định trai thương anh là đứa học trò cũ của bác. Bác gái, luôn gọi Thụy là thằng cu như  Nhị và các anh con trai lớn của bác.

            Khi đã quen thuộc với một thành phố mình đến, với một gia đình người thân mình được ở, đó cũng là lúc (mùa hè sắp hết rồi) mình lại hồi nhớ về chính mình. Ngoài Nhị và Huân ra,  Thụy cũng còn có những gương mặt bạn bè ở quê nhà nữa. Ngày mai đây, hẳn rằng, anh sẽ biết trân quí,  biết cất giấu  và sống hạnh phúc với kỷ niệm như tưởng mình đã có người yêu.

            Nha Trang cũng là thành phố lớn. Ga chính ở đây,  mỗi ngày có đến sáu chuyến tàu chạy đường ngắn, đường suốt. Những chuyến tàu đến hay đi, ngồi ở nhà vào lúc  chiều hay tối, Thụy đều nghe rõ tiếng còi tàu. Và, nghe qua từng hồi còi dài ngắn, anh biết chuyến tàu nào về, chuyến tàu nào sắp sửa ra đi. Tối hôm ấy, những ngọn đèn sáng, những tiếng bước chân người xa lạ và vui, rạp hát chiếu cuốn phim chiến tranh, hình ảnh một cô gái và chàng trai đi bên cạnh nhau nói những lời tâm tình, những lời từ biệt, thành phố Đà Nẵng bỗng dưng làm Thụy xao động, dấu yêu một nỗi niềm. Và rồi, anh mường tượng nhớ đến một buổi trưa hè khác có một người đàn ông và một cô bé trạc tuổi bằng em gái anh vào quán hàng cơm của mẹ anh. Anh biết hai người này là khách đi tàu ở xa về, vì chuyến tàu về đến vừa mới đi, và lúc này ngoài con đường có nhiều chiếc xích lô đang chở khách xuống phố.

            Cô bé khuôn mặt dễ thương, nước da trắng, còn người đàn ông chắc là ba của cô có mái tóc chải tóc bóng láng, mắt đeo cặp kính trắng. Lúc ấy đã quá trưa, khách ăn giờ đầu xong đi gần hết nên ghế bàn còn lại để trống nhiều.

            Khi Thụy mang cơm ra, đặt cái khay nhôm xuống bàn anh thấy mắt cô bé nhìn anh, nụ cười trên cặp mắt.

            Thụy trở vào đứng ở cửa bên quán, cầm ly nước trà đá uống. Tiếng còi ngắn cất lên, chiếc máng xối hứng nước được kéo ra sau đầu máy, rồi con tàu lăn bánh. Thụy hướng mắt nhìn con tàu với nhiều toa xe lần lượt chạy qua. Bỗng Thụy chú ý lắng nghe  giọng nói của cô bé và người đàn ông. Khi nghe được, anh biết là  cả hai không phải là người Quảng Trị ở đây mà là người miền Bắc. Thời kỳ đó, thời hạn cuộc di cư trong 300 ngày chưa chấm dứt. Ngang qua nhà ga nhỏ này, trước đây chỉ có hai chuyến tàu đi,  về giờ mỗi ngày có đến sáu chuyến, chưa kể là có tăng cường thêm xe nhà binh, xe chở hàng nhận công tác cứu trợ đi ra phía Bắc đến tỉnh Thanh Hóa chở đồng bào di cư vào miền Nam.

            Thụy bỗng có cảm tình với cô bé nên đưa mắt nhìn chú ý. Cô bé mặc chiếc quần tây xanh, áo sơ mi hồng, và có cặp mắt nhỏ thật đẹp. Hai người khách ăn cơm xong gọi tính tiền, Thụy nghe vậy vội bước chân đến. Vì phải thối lại nên anh trở vào quán lấy tiền lẻ nơi ngăn hộc , xong trở ra.

             Người khách cầm lấy tiền thối,  nói với Thụy:

-Cám ơn cháu.

            Thụy cũng đáp lời cám ơn với ông khách.

            Cô gái nghe được tiếng anh nói, ngước cặp mắt vui lên nhìn.

             Hai cha con  đứng dậy rời quán, trở ra đường chờ xe.

             Người đàn ông xách cái túi lớn, da nâu,  còn cô bé  quàng dây đeo chiếc túi nhỏ màu vàng bên vai.

 

 

 

 

 

                                                   VIII

 

 

 

            Thụy nhận được thư của Phương. Có một đoạn trong thư Phương nhắc đến Thiên Nga làm Thụy cảm thấy vui, tưởng đang ngồi bên nàng trò chuyện. Những ghi chú rất nhỏ về nàng, thư của Phương làm anh cảm động, thật rất trân quí tên nàng. Bây giờ đây, bóng dáng Thiên Nga đã tạo ra trong trí Thụy một sự liên tưởng phối hợp, và Thụy nghiệm thấy, nàng như là một cô giáo đang dẫn đường, vừa dìu bước anh, dù rằng, đã có lúc nỗi tuyệt vọng khiến anh phải vươn dài cánh tay níu giữ nàng lại. Nàng chỉ mỉm cười, cho anh chút hạnh phúc thật êm ái, tâm hồn mát dịu như bóng cây, đó là thời gian của nàng qua dáng áo tím, đôi mắt dịu hiền và một bàn tay êm mát , thế rồi, nàng nắm lấy tay anh bảo anh hãy gắng bước theo nàng. Anh cũng đã trở nên một cậu bé ngoan ngoãn, cảm thấy có nàng là sự an ủi, và lúc này, hơn ai hết nàng không hề có chút chi phiền muộn khi lắng nghe anh nói về tuổi trẻ bất hạnh của mình.

            Buổi sáng hôm ấy, ngồi trên chiếc xe khách đang chạy mà đầu óc  Thụy như là kẻ vô hồn, không có một ý tưởng nào khác ngòai sự bơ vơ đối với con đường học vấn đã chấm dứt. Làm gì cho tương lai, điều này, anh không dám có một chút tự tin nơi sức mình mà chỉ còn một nguyện cầu khao khát là mong ông Trời bù lại cho anh một chút may cuộc đời trong ánh sáng thế gian.          

            Khi xe hàng đỗ bến, xuống xe Thụy đi bộ về nhà. Trên đường nhìn hoa phượng nở đỏ, nhìn những dòng xe đạp của nam nữ học sinh dạo chơi cười nói rất vui, tự dưng anh cảm thấy mình lạc lõng như thể là kẻ lạ đâu từ miền xa nơi một vùng biệt xứ nào về đây mà không thể có ai quen nhận ra mình. Hoa phượng đối với anh trong phút giây này là nỗi buồn chảy  nước mắt. Huế, tuổi trẻ vẫn cứ luôn ôm ấp cả một bầu trời thân thương có dòng sông xanh và những hàng cây phượng mỗi mùa hè sẽ mang đến nét thắm tươi, rực rỡ cho thành phố này.

            Về đến nhà, Thụy dừng bước trên bực cửa. Nhìn vẻ mặt buồn bã của anh, ba mẹ không hỏi han gì nữa. Các em anh cũng vậy. Rồi Thụy bước vào nhà, lặng yên ngồi xuống như một người vừa mới ngã bệnh.

            Tiếng mẹ anh nói rất nhỏ:

-Con cái mình không có được chút ân huệ khoa bảng.

            Thụy nhìn ra cửa, buổi chiều đang xuống bên ngoài . Trên đường, một chiếc xe búyt đi lên Long Thọ vừa chạy ngang qua. Thụy trông thấy con sông, ngôi trường Bình Linh bên kia nơi anh vào học ở đó năm trước nữa, và sự yên lặng buổi chiều như muốn nói cho anh biết rõ về chuyện gia đình của mình.

            Sau hai tuần lễ về nằm nhà với bao nhiêu nỗi buồn chán không nguôi được, vào một buổi tối trong bữa cơm gia đình, Thụy nói với ba cho anh vào Sài Gòn tìm kiếm việc làm.

-Con làm được công việc gì ?, ba anh hỏi.

-Con chưa biết. Nhưng vào trong đó, tìm kiếm công việc làm cũng dễ hơn.

-Con có bạn bè thân trong đó không ?

-Có.

-Con viết thư cho bạn con đi.

            Sau ít giây suy ngẫm, ba anh tiếp lời:

-Ba biết con nản chí chuyện học hành. Thôi, thì cũng là cái số phận của mỗi người. Con kiếm việc làm để ra đời sớm. Rồi về sau, nếu được trời giúp cho con chút cơ may.

            Các em rưng rưng khóc đưa mắt nhìn Thụy. Thụy đọc được trên từng giọt nước nóng ấm của em mình hình ảnh sự đơn độc, khó khăn trước  cuộc đời khi anh phải giã biệt gia đình ra đi. Vào Sài Gòn, đó là nơi đến dứt khóat rồi. Nhưng anh sẽ làm công việc gì và sẽ nương tựa nơi đâu. Khi nghĩ đến chỗ nương tựa, Thụy không dám tìm gia đình các cậu và các dì em ruột của mẹ anh. Chẳng như, anh thi cử đỗ đạt , chuyện nương nhờ còn may, chứ một thân xơ xác vào Sài Gòn mà tìm đến người thân thực là một nỗi khó.

            Sau cùng, đến lượt anh Nguyên cùng ra đi. Anh Nguyên cũng vừa mới rớt vấn đáp năm Dự bị Văn Khoa, thực là cái số của gia đình Thụy mạt phúc đến như vậy . Nhưng anh Nguyên còn may là có được bằng Tú Tài II, và thêm khả năng viết báo. Từ quyết định của anh Nguyên, ba Thụy cho hai anh em đi Sài Gòn.

            Một lời dứt khóat, Thụy nói:

-Ba mẹ đừng lo. Con còn độc thân, kiếm được đồng lương con giúp ba mẹ và các em đi học.

            Chỉ còn một tuần nữa là bắt đầu niên học mới. Nhưng từ nay, gia đình Thụy lại một cảnh hai quê. Thụy và anh Nguyên đi xa mưu tìm cuộc sống. Từ nay, cả hai anh em  không còn có mộng ước ở ngưỡng cửa Đại Học như bao nhiêu bạn bè khác nữa. Từ nay, hai anh em cùng dấn bước vào đời với chuyến đi xa khởi sự vào những ngày sắp tới.

            Trước quyết định ra đi, Thụy trở vào lại Đà Nẵng. Thụy đi nội trong ba ngày. Thụy vào để thăm dì Bích Vân, sau đó sẽ đến với gia đình Thúy Hà. Chuyến xe hàng không đông khách nhưng ngừng nhiều trạm, mỗi nơi có khách xuống và khách lên, tới đỉnh đèo đã gần trưa. Xe nghỉ thường lệ nửa tiếng để chờ xuống đèo hai phía Nam Bắc, nhưng hôm nay, phía Nam, một quãng đường gần cây số đang được Công binh sửa chữa. Thụy thèm ly cà phê nên đi tìm quán. Đang đi, bỗng nghe có tiếng gọi Thụy giật mình và thật bất ngờ khi trông thấy chú Hoàng. Ông chú đang ngồi ở bàn phía ngòai hiên, uống bia một mình.

-Cháu uống gì ?

-Thưa chú, cà phê.

-Gọi đi.

            Thụy gọi một ly cà phê đá. Trong lúc chờ, tiếng chú Hoàng hỏi:

-Đi Đà Nẵng có việc gì vậy ?

-Cháu vào thăm dì Vân. Chú còn nhớ dì Vân con ông bác Huyện không ?

-Có. Bên ngoại con, chú biết hết.

            Nhìn lại người chú, Thụy nói:

-Con sắp đi Sài Gòn.

-Học trong đó ?

-Dạ không. Con đi tìm kiếm việc làm.

            Cô gái mang ly cà phê ra. Thụy mở hủ đường cho thêm vài muỗng rồi khuấy uống. Cà phê không được ngon. Thụy cầm gói thuốc của chú Hoàng rút một điếu và xin phép hút. Một giọng khàn đục, Thụy nói:

-Số phận con đen đủi quá.

-Nhưng sao mà cháu bỏ học ?

-Không thi đậu, làm sao học tiếp được nữa chú. Cái số của cháu không sáng dạ trong sách đèn, thôi cháu vào đời kiếm lấy cuộc sống mà lo cho bản thân.

-Vào trong đó cháu làm công việc gì ?

-Cháu chưa biết. Nhưng ở đô thành việc làm công nhân cũng dễ kiếm.

-Cháu đi một mình.

-Có anh Nguyên đi nữa chú. Anh theo nghề viết báo.

-Được lắm. Thằng Nguyên theo nghề báo là hay, chọn đúng đường đi.

            Thụy uống cà phê chậm từng hớp như cố lấy bình tĩnh. Một dòng đời trôi nhẹ qua tâm hồn anh. Tưởng rằng bao nhiêu kỷ niệm cũ ở miền quê thời ấy, anh đem ra bộc bạch với người chú, nhưng mà không, một giọng buồn anh đã nói:

-Gia đình con không có nếp khoa cử, buồn quá chú.

-Chú rất hiểu.

            Chú Hoàng đặt ly bia xuống bàn. Như thể cố nén giọng buồn bực và chia xẻ với người khác, chú nói:

-Chú hiểu từ lâu rồi.

-Cháu biết, ba mẹ cháu buồn lắm nhưng số phận từng đứa con và cả gia đình luôn lận đận.

-Cháu đến tuổi quân dịch chưa ?

-Dạ rồi.

            Đã mười một giờ trưa, xe vẫn còn đợi sửa đường. Nắng lan rộng trên đỉnh đèo, sương mù đã tan hết nhưng khí lạnh từ núi, vang âm dòng suối tuôn chảy và sóng vỗ trên mặt biển dần dần tràn ra xa. Bỗng nhiên, lúc trông thấy bóng dáng con tàu Thụy chợt nhớ một buổi sáng mùa đông trên bến Cảng, vào giờ đó, trước khi vào lớp học cả đám bạn anh đứng ở công viên vẫy tay chào một đòan thủy thủ mặc áo trắng đứng trên boong, họ cũng cười vui la hét vẫy vẫy những cánh tay khi con tàu từ từ tách bến.

            Hai người trở lại chuyện cũ về gia đình. Thụy bỗng hỏi:

-Ngày trước, chú đã ở Hội An?

-Chú làm việc ở đó ba năm mới ra ngòai này.

-Chú có mặt ngay lúc đầu Đại Học Huế mở.

            Chú Hoàng gật đầu. Thụy đốt thêm điếu thuốc. Những sợi khói mỏng trườn lên làm Thụy nhớ đến Lăng. Lăng đang học Luật ở Sài Gòn, ở nhà cậu Nghiêm. Hội An, thành phố nhỏ ấy Thụy đã đến thăm, đi chơi cùng với mấy người bạn. Nơi thành phố ấy, Thụy nhớ biển Cửa Đại, nhớ một mùa hè thanh bình, và vào năm đậu xong Trung học Đệ Nhất Cấp, từ Quảng Trị  Lăng đi một mình vào Hội An thăm gia đình người chú. Lăng với Thụy là anh em bạn dì. Lăng mồ côi năm lên ba tuổi. Dì Quyên mẹ Lăng lấy chồng có ba mặt con, ở góa bụa từ thời còn trẻ . Mẹ Thụy, dì Quyên, cậu Nghiêm là chị em cùng một cha, một mẹ. Thực ra, ông bà ngọai anh có sáu người con nhưng đã mất đi ba. Năm đó, cảnh tản cư chạy lọan những gia đình người thân trôi giạt về tạm trú ở quê ngọai rồi tản mát. Hình ảnh chú Vinh ba của Lăng và chú  Hoàng đây tìm lại trong trí nhớ thuở đó, Thụy chỉ nhớ ra được dáng người. Rồi Thụy gặp lại chú Hoàng sau này khi đã lớn, đó lần đầu tiên anh đến nhà chú vào mùa hè cách đây ba năm ở khi anh rời Đà Lạt về Huế học. Ở Sài Gòn, thỉnh thỏang Lăng có viết thư cho Thụy. Dịp Tết, có một năm Lăng gởi cho anh  ít sách truyện và báo Xuân để đọc. Luôn luôn hai bạn sống có tình nghĩa với nhau. Trong các đứa cháu, Lăng được các cậu, các dì cả bà con xa gần bên ngọai nữa biểu lộ nhiều tình cảm vừa hãnh diện về sự học hành, đỗ đạt của Lăng hơn mấy anh em bên nhà Thụy. Người ở bên ngòai nhìn thấy vậy nghĩ rằng, Lăng mồ côi cha tự thuở bé nên được nhiều tình thương của người thân. Có đúng một phần, nhưng không phải vậy đâu. Bên ngọai rất bề thế về sự vinh hiển qua nhiều đời làm quan và khoa bảng, nhưng riêng mẹ anh rất ít học, và ba anh  được làm rể gia đình ông ngoại chỉ là giáo viên với mảnh bằng Tiểu học.  Vào thời gian gia đình gặp họan nạn, sống nương nhờ người thân, cứ đến bữa ăn ngồi yên lặng Thụy không dám chuyện trò, anh luôn có cảm giác nôn nao trong cổ họng khi cố gắng ăn thật chậm rãi, khẽ khàng để nuốt từng miếng cơm vào cổ họng. Và ngồi ở đây, chốn này, đem những lời tâm sự ra nói với người chú của Lăng, mới hai mươi tuổi đầu, Thụy biết mình nên đi tìm đến một vùng đất hứa. Và, anh rất tin cậy ánh sáng, con người, cùng thiên nhiên ở miền Nam.

-Cháu có muốn xin việc làm ở Huế không ?

-Dạ không. Cháu không thể ở ngòai này được. Và bước đường cùng, cháu nhảy vào lính là xong chuyện.

-Cháu đi học Sĩ quan được không ?

-Không được, vì cháu không có bằng Tú Tài.

-Nếu cháu ở lại Huế, chú sẽ xin cho cháu một chân giáo viên dạy ở trường Tiểu học.

-Cháu không nghĩ tới trường học nữa. Cháu muốn làm công nhân, hoặc là đi lính thôi.

            Chú Hoàng rót phần bia còn lại trong chai vào ly. Thụy thấy chú uống từng ngụm trong sự cố gắng mà có lẽ bởi những điều thất vọng của đứa cháu vừa bày tỏ làm chú băn khoăn, suy nghĩ.

            Một giọng thản nhiên, chú nói:

-Con cháu, đứa nào chú cũng thương.

-Dạ, cháu biết.

            Nắng ấm áp, sáng sủa, tự dưng lòng Thụy  cởi mở.

-Bây giờ, chị Hiền sao rồi chú?

-Nó thi đậu vào trường Sư phạm Qui Nhơn.

-Chị Hiền đi dạy, cũng hay đó.

-Nó thi rớt lọat nhì, hai kỳ luôn.

-Cháu cũng bị hỏng lọat nhì.

            Có tiếng kẻng của người lính canh đánh vang lên nghe giòn giã. Hành khách cười nói, vui chuyện, và họ trở lại những xe khách trong vội vàng.

            Chú Hoàng đi traction An Lợi, Thụy lên xe Tiến Lực. Những tiếng còi hiệu vang xa, thực rộn ràng. Rồi từng chiếc một nối nhau thành một đoàn chuyển bánh rời trạm nghỉ trên đèo. Lúc này, lòng Thụy tự nhiên hoang mang vương vấn một nỗi buồn. Thụy thoáng nghĩ đến Dạ Hân trong mối tình thơ dại của cô em gái dịu hiền như hương gió thỏang qua. Ngày rời xa Đà Lạt, lòng Thụy rất buồn. Anh đi một mình, không có ai đưa tiễn cả. Hành lý của anh có chiếc va li và túi xách đeo vai. Bến xe lam nằm ở chợ, đến nơi, Thụy vừa kịp chuyến xe chạy đưa khách lên nhà ga.

             Thụy mua được giá vé học sinh. Thời gian còn sớm, anh vào quán  ở phòng đợi ăn tô mì nóng và uống ly cà phê. Thụy hút thuốc lúc nhấm nháp ly cà phê. Trời lạnh, mưa nhỏ hạt, tuy trong lòng buồn nhưng qua làn khói anh vẫn cảm thấy vui thích với sự cô đơn.

            Hai toa xe hạng ba nằm phía gần đầu máy. Hành khách đi tàu không mấy đông nên không có sự chen lấn. Dưới sân ga trở nên vắng, và lúc này sắp đến giờ khởi hành. Thụy không cảm thấy nôn nao, vì hiểu được rằng chuyến đi này của anh không còn mong ngày trở lại nữa. Trong một thoáng  nhớ đậm màu khói thuốc, Thụy chợt nghĩ, những kỷ niệm về tuổi niên thiếu đời anh xin gởi lại thành phố này.

            Tàu chuyển bánh, rời ga. Những vòng bánh vừa mới lăn trên đường sắt thật nhẹ nhàng như giấc mơ. Tàu xuống ga Phan Rang gần nửa đêm. Tại đây, Thụy chuyển sang tàu đi ra Huế.

            Trưa hôm đó, Thụy đạp xe tìm đến nhà Lăng. Từ ngày vào Huế học, Lăng ở nhà ông Hoàng người chú ruột.

             Thụy gặp một cô gái từ trong vườn bước ra,  vội cất tiếng chào hỏi. Cô Dạ Hiền chỉ cho anh lối rẽ xuống bến sông. Thụy chưa hề gặp chú Hoàng của Lăng, nên để xe đạp ở sân vào nhà trước để chào. Vừa thấy anh xuất hiện, hai ông bà nhận ra ngay, vui vẻ hỏi chuyện. Thụy ngồi xa một chút, ở chiếc ghế bên góc cột vừa nhìn hai người, vừa đáp lời. Mới lần đầu gặp, Thụy cảm thấy thực sự gần gũi với mọi người trong gia đình.

            Một lúc sau, Thụy đứng dậy đi cùng với  một em gái nhỏ xuống bến sông. Vừa bước qua vòm cổng, anh đã nghe tiếng chuyện trò và trông thấy bọn trẻ nhỏ đang tắm la hét, đuổi bơi xa ngoài sông. Anh Nguyên, Lăng, và người bạn ngồi trên chiếc giường tre dưới bóng cây nhãn cùng reo lên khi thấy Thụy. Đi xa, nay trở về gặp được người thân anh biết mình xúc động. Anh Nguyên và Lăng, vừa mới thi xong cách đây hai ngày nên Thụy không hỏi kết quả. Người bạn tên là Đông, dạy học các em nhỏ trong nhà. Đông biết tên Thụy, dù mới lần đầu gặp. Và một niềm vui tự nhiên  mang đến là Đông và Thụy cùng tuổi, cùng   học cùng một lớp. Vừa chuyện trò với anh em, Thụy để mắt chú ý một cô bé đang ngồi giặt quần áo  trên bậc đá. Một lúc sau, anh bỗng lên tiếng hỏi:

-Em học lớp mấy rồi ?

-Dạ Đệ Lục.

-Em học trường nào ?

-Dạ, Đồng Khánh.

            Cô bé ngừng giặt, ngước mắt nhìn Thụy. Sau đó, anh đứng lên rời khỏi chỗ mình bước qua thềm đá, ngồi xuống bên cô.

-Em tên là An, phải không ?

            Cô gái cười, nhìn Thụy nói:

-Anh đoán tên không đúng.

-Vậy em cho anh biết tên đi.

-Không.

            Cô gái mím chặt môi, mắt cười nhìn Thụy. Rồi cô hỏi:

-Sao anh gọi tên em là An.

-Hình ảnh nhỏ bé của em khiến anh nghĩ đến cái tên mình yêu thích.

-Hay là, một người bạn gái anh tên An.

-Không, không phải vậy.

-Nói cho em nghe chuyện đi.

-Không có ai hết. Chỉ có em cho anh tên  An, thôi.

-Anh đặt tên cũng hay, cô gái nói.

            Thụy  tự nhiên thấy vui trong lòng. Giặt hai  áo cánh xong, cô lấy cái thau nhựa múc nước để xả. Thụy nhìn dáng điệu của cô qua bóng nắng. Hai lần cô thay nước trong thau, đến lần thứ ba xả xong nước chót rồi vắt khô áo. Bên cô, Thụy có được ngày trở về sau nhiều năm đi xa. An, cái tên anh hình dung qua cô gái nhắc tôi nhớ một lọai thảo mộc, và nhớ đến Cybèle cô bé trong phim Les dimanches de ville d’Avray.

            Giặt xong, An còn ngồi lại chuyện trò với Thụy. Thụy nhận ra niềm vui của An trong ánh mắt nhìn qua anh, mỉm cười với cái tên  anh gọi cô.  Tuy nhiên, biết thế Thụy không tin chắc rằng cô sẽ tự hỏi, tại sao trong gia đình ba mẹ không đặt cho cô tên đó.

            Vừa mới biết nhau, nhưng Thụy và An nói chuyện rất là tự nhiên, thân mật. Hình ảnh Đà Lạt còn nguyên vẹn trong trí nhớ nên Thụy chỉ cần nhắc lại một đôi chút là đủ để  cho An  tưởng tượng, hình dung ra một thành phố có hoa anh đào, những con đường dốc,  những ngôi nhà ngói đỏ, các  tu viện,  những khu rừng, những đồi thông bị sương mù bao phủ khi nắng buổi sáng chưa lên cao hay trong buổi chiều khi trở về cùng với mưa. Một đôi câu hỏi, hay là những chuyện kể về Huế trước khi mùa hè tới, bằng giọng nói thật dễ thương của An trong vẻ ngập ngừng, tự dưng, Thụy có ý nghĩ  nay mình  đã trở nên khác hẳn.

            Khi rời đèo Hải Vân để về thành phố, các xe nhỏ chạy nhanh hơn nên tới bến trước. Tuy nhiên, các xe lớn cũng về đến nơi chỉ chậm sau chừng mươi, mười lăm phút.

            Vừa ra khỏi xe, Thụy bỗng thấy chú Hoàng còn đứng chờ ai ở bến chưa vội đi. Thấy vậy anh bước nhanh đến chào và hỏi:

-Chú đợi xe cơ quan ?

-À. Chú đợi cháu.

-Dạ.

            Thụy theo chú Hoàng vào quán ăn trưa ở bến xe. Thụy không biết người chú định nói gì , nhưng anh cứ đi theo. Ngồi trong quán nắng trưa hừng hực nên cần phải có nước giải khát. Thụy uống nước đá chanh, còn chú uống bia. Bữa cơm phần được gọi chờ mang ra. Thụy và chú đốt điếu thuốc trong lúc chờ bữa ăn.

-Chừng nào cháu đi ?

-Dạ tuần tới.

            Chú nhìn lại vẻ mặt Thụy và anh ước tưởng, trên gương mặt mình đã lộ thấy cả một đọan trường đầy chông gai, trắc trở.

            Khi bữa ăn mang ra, Thụy cảm thấy đói vì cơm và thức ăn nóng hổi, lên khói.

- Ăn đi cháu.

-Dạ, mời chú.

            Hai người ăn thong thả. Chú Hoàng chắc đã nghĩ kỹ , rồi hỏi:

-Cháu muốn nghe lời chú không ?

            Thụy đáp:

-Dạ. Lúc nào cháu cũng coi chú như ruột thịt.

-Cháu ở lại Huế đi. Chú sẽ xin việc cho cháu. Tốt nhất, cháu xin dạy một trường tiểu học ngọai ô. Đi dạy còn có thì giờ để cháu học thi lấy bằng Tú Tài.

            Thụy đang nuốt miếng cơm, bỗng dưng có cảm giác trong cổ bị nghẹn. Lòng tốt của chú Hoàng, biết anh sẽ nói ra sao để chú hiểu được tâm trạng của mình. Lặng im trong chốc lát, Thụy mới mở lời:

-Gia đình cháu không có ai sáng dạ học hành. Anh Nguyên là người khai khoa cho cả họ hàng bên nội cháu với mảnh bằng Tú Tài. Về phía ngoại , anh em của cháu chẳng dám tơ tưởng để thừa một chút danh thơm. Vậy nên, cháu không thiết nghĩ đến chuyện học làm chi. Đến chuyện nghề giáo cũng vậy, ba cháu cũng đã nhận ra nghề bạc  bẻo này trong đời mình. Cháu muốn đi xa, vào miền Nam kiếm sống giống như phu đồn điền thời trước bỏ xứ đi tìm cuộc mưu sinh. Thà đi như vậy, cháu có đủ can đảm hơn, vươn mình hơn là an phận cuộc đời như ba của cháu. Cháu rất biết ở đây, với uy tín của chú việc gì chú giúp cũng thành. Chú rất tốt, cháu biết và cháu hiểu.

            Bữa cơm dọn ra nhiều món và Thụy ăn thực tình. Khi đã hiểu tấm lòng anh trống trải, chú Hoàng lặng im , suy  nghĩ về hòan cảnh của anh như là con của chú phải đi xa vậy.

            Xong bữa ăn, chú Hoàng và Thụy tiếp tục câu chuyện đời. Sau đó, rời quán Thụy nói lời chào chú rồi từ bến xe đi bộ về nhà người dì .

            Một câu chân tình, dì Vân hỏi:

-Vào Sài Gòn, cháu vẫn tiếp tục học ?

-Dạ không, cháu tìm việc làm.

            Trên gương mặt người dì lộ vẻ buồn lo lắng. Thụy nói chuyện với hai người thân khá lâu, sau đó, qua phòng khách lớn lúc anh nghe có tiếng dạo đàn. Chị Bích Ái đang chơi dương cầm, Thụy có nhớ một vài bản cổ điển và yêu cầu chị đánh cho nghe. Tiếng đàn ngân vang, trong sáng, anh nghe mà như ôm giữ  cả dòng nhạc trong tâm hồn một nỗi buồn nhớ lạ lùng.

-Ít ngày nữa, con đi.

            Thụy đáp lời lúc chào từ biệt. Và từ nhà người dì, Thụy ra đường đón xe lam xuống  phố, ghé vào hiệu sách đọc báo, rồi về nhà Thúy Hà.

            Vừa thấy Thụy xuất hiện, Thúy Hà rời ghế đứng dậy tay cầm một tập giấy. Nàng nói:

-Rất tiếc truyện không được đăng.

            Thụy chợt nghĩ đến một hạnh phúc. Nàng đã đem lại cho anh hạnh phúc về một lá thư  của anh mà chính tay nàng đã mở ra xem. Thụy rất vui với sự chân tình của nàng.

-Cả nhà đi vắng ?

-Cả nhà qua thăm bác Phúc.

            Thụy và Hà cùng ngồi xuống chỗ bàn khách.

-Tiếc quá, Thụy nói.

-Sao mà tiếc ?

            Nàng hỏi Thụy, không đưa mắt nhìn. Thụy nói:

-Nếu truyện được đăng là cả một niềm vui. Lúc gởi đi, cứ ước ao truyện được đăng để làm món quà tặng Thúy Hà.

-Bày vẽ ra.

-Thực lòng đó.

-Không được đăng thì mình viết truyện người khác.

            Nàng đáp lời anh, rồi cúi mắt chăm chú đọc. Thụy hỏi:

-Mà truyện viết được không ?

-Không được. Bịa đặt và tưởng tượng nhiều quá.

-Thì truyện viết phải tưởng tượng.

-Đồng ý, nhưng phải tôn trọng sự thật.

-Có nhiều sự thật trong đó, biết không ?

-Đâu, sự thật nào đâu ?

- Hà  đã đọc qua hết truyện rồi sẽ thấy.

-Có thấy, nhưng hôm đó chỉ chơi cờ ca rô thôi mà, làm gì có tóc nàng xõa kín gương mặt rồi để chàng vén mái tóc nàng lên cho hai người đưa mắt nhìn nhau.

            Thúy Hà có giọng nói thật hay. Nhớ lại một buổi trưa hôm đó trong giấc ngủ Thụy thấy cảnh anh và nàng chơi cờ ca rô trong lớp học. Người ta thường nói chiêm bao là do ức chế, nhưng thực ra, hình ảnh nào đã gặp thì được nhìn thấy trở lại trong giấc mơ. Trong truyện, Thụy có  thêm thắt đôi chút để hai người hiểu nhau. Trong giấc mơ, hình ảnh đó đã bày tỏ tình cảm thân mật của hai người.

            Truyện ngắn Thụy viết 10 trang , Thúy Hà đọc hết không bỏ sót dòng nào. Đọc xong, nàng đưa qua cho Thụy. Thụy cầm lấy, hơi bối rối không biết làm gì với một món quà tặng không còn dùng được nữa.

            Lặng lẽ, Thúy Hà rót trà vào tách cho Thụy.

-Anh uống nước đi.

-Còn hai tuần nữa thôi, Thúy Hà đi học lại rồi.

-Em chưa  chuẩn bị gì cả.

-Năm cuối, các môn học đều khó. Mong làm sao, năm tới em vào Đại Học.

            Nàng mỉm cười nhìn lại Thụy. Hai người cùng vui chuyện, nhờ vậy, Thụy quên được nỗi buồn về sự hỏng thi. Rồi, có những câu nói gần như vô nghĩa. Với nàng, cuộc sống rất là vô tư. Còn anh, anh cứ nhìn ngắm mãi vẻ đẹp trên gương mặt nàng. Trên ánh mắt nàng, anh nhận ra tình yêu của thời gian có nhiều màu sắc ánh sáng. Và, anh lại tự nhủ hạnh phúc cho Duy đã có được nàng. Thụy luôn nhận ra vẻ đẹp của nàng qua gương mặt và mái tóc. Nàng để lộ ánh sáng trắng sữa trên làn da và gương mặt, ở hai cánh tay và hình dáng cân đối của nàng.

            Đâu đó, mùa thu đang trở về. Và, thành phố này cây lá sẽ xanh tươi. Thụy biết lòng nàng không buồn nhưng cũng không vui.

-Ngày mai, anh  trở ra lại Huế.

-Anh đi Sài Gòn không ?

-Có. Đi, nhưng không bao giờ quên Thúy Hà đâu.

            Giọng Thụy nói thật chân tình, cảm động. Thúy Hà ngước mắt nhìn anh. Lúc ấy, hạnh phúc dành cho Thụy là nụï cười trong cặp mắt sáng của nàng.

            Buổi trưa qua mau. Cả nhà về tới. Ông  Kha thấy Thụy vào lại hỏi thăm sức khỏe ba mẹ anh ngoài nhà và ông bắt tay anh thật là nồng ấm.

-Cháu đã nhận được thư của một người bạn ở Sài Gòn.

-Chừng nào cậu đi ?

-Dạ, đầu tuần tới. Cháu vào đây thăm hai bác, ngày mai cháu trở ra Huế.

-Không ở chơi thêm ít ngày.

-Cháu ra, chuẩn bị chuyến đi để sớm gặp người bạn.

            Lúc nói chuyện với gia đình, Thụy quên mất sự vắng mặt của Hà. Một lúc sau, nàng xuất hiện ở lối cầu thang đi xuống. Lúc Thụy ngước mắt nhìn thấy, nàng mỉm cười. Nàng có một vẻ đẹp khiến cho anh cứ nhiều lần bối rối, bỡ ngỡ. Hơn một giờ qua, trong lúc nhà vắng vẻ chỉ có hai người chuyện trò với nhau mà những ý tưởng thực sự muốn bày tỏ còn ngập ngừng, lơ lửng, dù trong thâm tâm là có sự thương cảm của tình yêu mà với hai người, ai nói ra trước cũng được. Thụy cảm thấy sự thua kém này vì bản tính rụt rè, cộng sự không may mắn của anh sau một năm học. Nhưng nàng chẳng bao giờ quan tâm đến chuyện đó. Nàng rất tự nhiên, vẫn nghĩ về anh là một người bạn thân, vẫn biết rõ hơn ai hết trong gia đình là anh yêu nàng, dù một chút mong manh trong hy vọng nhưng nàng vẫn chấp nhận, và tự nói với chính mình là nàng cũng yêu anh.

            Đến trưa, trong bữa ăn Thụy có mặt với gia đình nàng.  Thụy dè dặt, nhưng với vẻ mặt thân thiện của các em nàng làm anh hài lòng. Sau bữa ăn, ông bà Kha nghỉ trưa còn Thụy cùng mấy đứa em và Hà lên gác chơi bài. Vừa chơi bài, vừa trò chuyện. Vân nói:

-Rạp Lido có chiếu phim hay lắm.

            Thụy  đưa mắt nhìn qua Hà . Trong cái nhìn của Thụy, Vân bắt gặp là hiểu. Cô nói:

-Chị Hà bao ciné nghe ?

            Hà nhìn qua Thụy, gật đầu. Rồi mấy anh em chơi bài tiếp. Lúc này, Hà là người chủ động dẫn dắt câu chuyện từ phim ảnh, đến bạn bè, và nói đến ngày hội Festival có tổ chức cuộc thi nữ sinh duyên dáng.

            Rất vui, Thụy lên tiếng:

-Thúy Vân  nên dự thi.

-Em cũng đồng ý như vậy, Hà tiếp lời.

-Không, em không đi đâu.

-Anh nghĩ là em  sẽ đoạt giải.

            Hà nói:

-Xong chưa, khui bài nhé.

            Tất cả chờ đợi. Khi Hà lật hai cây bài Thụy lên, nàng cười nói:

-Cái tội dằn non.

            Lòng anh  quá vui trong giọng nói của nàng. Từ dạo anh biết nàng cho tới nay, mỗi cử chỉ nhỏ nhặt trong ánh mắt, nụ cười của nàng đều có liên hệï đến tình yêu.

            Buổi chiều, họ cùng xuống phố chơi và coi chiếu phim. Sau khi vãn hát, Thúy Vân bước tới gần Thụy, nói:

-Em có việc phải đi.

-Em đi đâu ?

-Em để anh lại một mình. Một mình để cho anh nói lời từ giã với chị Hà.

            Sáng hôm sau, Thụy thức dậy sớm vì thường ngủ ít. Khoảng mười giờ, nhà dọn bữa ăn sáng, cà phê, nói chuyện với gia đình một lúc lâu anh đứng lên xin kiếu từ. Giọng anh hơi run khi nói lời từ giã. Ông bà Kha và các em chúc anh đi đường bình an. Riêng Hà, nàng tặng cho anh gói quà nhỏ bọc trong giấy hoa. Anh nói rất nhiều lời từ biệt với nàng bằng đôi mắt của của mình.

-Anh nhớ viết thư cho em.

            Nói xong, nàng đưa tay cho Thụy bắt. Đêm qua, nàng thức khuya. Anh biết nàng thức khuya, vì thấy trên căn gác còn để sáng đèn đến một giờ khuya. Khi thấy anh bối rối, nàng mỉm cười, như thế, hai người sẽ còn nhớ đến nhau khi ở xa nhau. Thế rồi, một mình anh ra đi. Thụy tới bến xe vừa kịp chuyến sắp khởi hành. Xe chạy nhanh, sau hai giờ đường là đến Huế. Về đến nhà đã quá trưa, anh mệt đi nằm nghỉ. Trong giấc ngủ, hình bóng người yêu đến, và rồi, một áng mây trắng bồng bềnh biến thành chiếc áo trắng nàng mặc. Nàng cũng đã theo anh về Huế với áo trắng, như thể cho anh nghe được tiếng nàng gợi nhắc đến một tấm lòng quê hương cũ.

            Khi anh thức dậy, nhà vắng vẻ. Anh thở nhẹ cho nỗi buồn tan đi, rồi mở túi xách lấy ra gói quà Thúy Hà tặng cho anh. Một cuốn sách truyện bọc ngòai, ghép ở trong là một phong bì dày với lá thư, mấy tấm ảnh của nàng và có cả một món tiền.

            Lá thư, nàng viết:

Anh ra đi bình yên. Em rất thương anh, luôn nhớ đến anh. Những tấm ảnh này em gởi anh làm kỷ niệm. Em không ghi lời đề tặng gì cả. Em cũng rất biết hòan cảnh anh, đi xa như vậy sẽ thiếu thốn lúc ban đầu. Tiền Ba Mợ cho để dành, em cho anh để anh dùng đến lúc cần.

Em,

Thúy Hà

 

 

                                                             IX

 

           

            Thiên Nga đã dọn đến chỗ mới ở khu phố nhà ga. Một dãy nhà ngang gồm bốn căn có diện tích bằng nhau, căn đầu tiên gần lối cổng vào là của gia chủ, một cặp vợ chồng đã hưu trí, hai căn kế bên cửa đóng kín, bên trong là nơi thờ tự có chưng các món đồ cổ và đồ gia bảo, căn cuối hết vừa mới được mở cửa cho người thuê.

            Nga thuê nơi chỗ ở này giá rẻ, nhà rộng rãi, thoáng mát, có vườn sau, sân trước nhìn ra thấy con đường lên vùng ngoại ô, thấy con sông nhỏ hẹp nước trong xanh, và bên kia sông là ngôi trường nhà dòng cổ giống như một tu viện.

            Nga đã có năng khiếu vẽ trước khi thi đậu vào trường Mỹ Thuật. Những năm học ở trường Sao Mai, mỗi kỳ triển lãm Nga luôn nhận được phần thưởng qua mấy bức tranh vẽ rất đẹp, sắc nét, giàu nghệ thuật sáng tạo. Với căn nhà thuê thật vừa ý, Nga đã trang trí từ  phòng sinh hoạt ra phòng khách bằng các thứ  lọ hoa, tranh vẽ, tượng điêu khắc bằng gỗ,  thạch cao, trông giản dị, nhưng đầy ấn tượng.

            Bên trong phòng sinh hoạt, lớn nhất là chiếc giường ngủ trải nệm. Ở cạnh bàn học trông ra cửa sổ có một chiếc kệ ba ngăn, ngăn trên là sách hội họa, ngăn giữa để các loại thuyết, và ngăn dưới là sách giáo khoa chương trình thi Tú Tài phần hai. Nếu năm tới thi đậu, nàng sẽ theo học Luật, còn ở trường Mỹ Thuật là năm thi tốt nghiệp ra trường.

            Trường Mỹ Thuật nằm trong khu Đại Nội, nơi đó, trước đây là khuê phòng cung nữ  của nhiều đời vua triều nhà Nguyễn.

            Năm học mới đã bắt đầu được ba tuần lễ. Lớp của Nga chỉ có hai nữ sinh viên, còn lại là nam, khoảng mười người. Chương trình học năm thứ hai khá nặng, rất nhiều môn về văn hóa, lịch sử , kịch liên quan đến hội họa và thẩm mỹ , những môn này được các giáo sư  ở bên Viện Hán Học và trường Văn Khoa, trường Kiến Trúc qua dạy.

            Thiên nhiên là người thầy nghệ thuật. Vì vậy, các sinh viên bạn nào cũng tìm kiếm những cảnh trí độc đáo ở bên ngoài để làm đề tài cho tranh vẽ. Vào những ngày đi dã ngoại, sinh viên lớp của Nga theo các thầy hướng dẫn đi tới những nơi tụ hội nhiều thắng cảnh đẹp, trữ tình của sông nước, núi rừng. Vào những buổi học bình thường, khi tan lớp, Nga đạp xe về nhà. Trên đường về, bóng dáng nàng qua phố lúc với hình ảnh áo dài trắng, lúc là áo dài tím, vàng hoặc màu thiên thanh. Thiên Nga là một thiếu nữ đẹp dịu dàng và đức hạnh. Nàng dành cho cuộc đời một khuôn mặt rất hạnh phúc, một đôi mắt mãi mãi sáng với nụ cười, một giọng nói rất hồn nhiên và đầy tự tin. Khi cơn gió vô tình làm rớt xuống trên vai áo nàng những bông hoa đỏ thắm của phượng, lúc ấy, hình ảnh nàng là cả một bức tranh. Nga, tên nàng còn là tên thành phố của con tim. Nga, tên ấy của nàng cũng dễ gây cho bạn sự liên tưởng về các thứ bông hoa và  màu sắc mỗi bông hoa ấy luôn được nhìn như là biểu tượng. Và một ngày kia, thành phố sẽ mang nhiều bông hoa khác nữa từ  cái tên và tâm hồn của cô gái để xây dựng nên thành một khu vườn, một công viên.

            Tối qua, gần tới giờ Nga đi nghỉ thì Nguyên đến, trông anh có vẻ mỏi mệt vì làm việc căng thẳng. Nhưng, anh cảm thấy rất là vui khi được về bên người yêu. Nga hỏi:

-Sao anh tới trễ vậy ?

            Nguyên chưa đáp lời, anh cầm bàn tay Nga rồi hai người ngồi xuống ở bàn học.

-Em làm anh ly trà đá nghe ?

            Nguyên gật đầu. Nga đứng lên, nàng đi xuống nhà dưới. Nguyên lật cuốn vở học của Nga ghi chép những bài luận mẫu Pháp Văn nàng chọn trong sách viết ra, đây có thể là những đề thi. Khi Nguyên cầm cây bút sửa lại mấy lỗi viết sai, Nga lên tới. Nàng đặt ly nước mát xuống bàn, xong ngồi bên cạnh Nguyên.

-Anh ăn uống gì chưa ?

-Có, anh ăn ở trại rồi.

-Anh ghé bên nhà chưa ?

-Anh về thẳng đây luôn, một tiếng nữa anh vào trại.

            Nguyên uống một hớp đầy xong đưa qua cho Nga.

-Tuần tới, em vào nhà không ?

-Không, đến cuối tháng.

-Năm nay bài vở nhiều không ?

-Chắc chắn là nhiều hơn năm ngoái. Năm nay, học thêm môn họa hình và cơ thể học.

-Ngày mốt anh lên căn cứ hành quân.

-Đi lâu không ?

-Chừng một tuần, có thể hơn.

-Lâu nhỉ.

-Em biết chuyến đi lần này như thế nào không ?

-Thì vẫn là công tác dân sự vụ.

-Không, em đoán sai rồi.

            Thiên Nga ngước mắt nhìn qua Nguyên, và lúc nào cũng vậy, nụ cười trong mắt nàng thật sáng dịu. Nguyên nói:

-Có đoàn văn nghệ Sài gòn ra hát cho lính ở tiền đồn. Anh phải hướng dẫn đi, buổi đầu tiên diễn ở trung đoàn sau đó đến các tiểu đoàn.

-Có diễn cho dân chúng coi không ?

-Tùy ý trưởng đoàn. Nhưng anh sẽ cố sắp xếp một đêm cho dân làng được xem.

-Anh cần để cho dân chúng được xem. Ở những vùng xa hẻo lánh, ít khi họ có được dịp như vậy.

-Em của anh lúc nào cũng đầy lòng nhân hậu.

-Những  người khác, em rất là dễ dãi, nhưng với anh phải khó và nghiêm khắc như cô giáo.

-Sao vậy ?

-Anh không hiểu ra tính tình của anh à.

-Anh vui tính, luôn biết chìu em.

-Không đúng. Anh rất là lông bông, liệu hồn đấy.

            Nguyên cầm bình trà rót thêm vào ly còn nước đá. Anh uống và cảm thấy đã khát.

-Anh ăn gì đi, không thì đói.

-Có gì ăn ?

-Mì gói.

-Chút nữa, ngồi bên em anh cảm thấy rất dễ chịu.

-Dễ chịu thực không ?

            Im lặng, Nga hé môi để cho Nguyên hôn. Nguyên hôn thật lâu làm thân người nàng run  rẫy.

            Bên ngoài trăng sáng. Hai người đứng dậy đi lên nhà trên mở cửa trước ngồi xuống thềm hiên. Ở thành phố Huế, bạn luôn có cảm giác yên lặng và xa xôi. Về đêm, vào mùa trăng sáng, cảnh vật trở nên huyền nhiệm, mỗi cảnh lồng vào trong ánh trăng một thứ tiếng nói, rồi tất cả hòa vang thành nhạc khúc trên dòng sông đang chảy.

            Nga khoác ngoài chiếc áo len hồng, nàng dựa đầu lên vai chiếc áo jacket dày của Nguyên. Bàn tay nàng trong tay người yêu.

-Đúng là cảnh trăng mùa thu.

            Nga mỉm cười sau câu nói của Nguyên. Rồi nàng bảo:

-Anh có tâm hồn thi sĩ.

-Mỗi bài thơ anh sáng tác, luôn mang bóng hình em.

-Nhưng anh đâu có làm thơ nhiều.

-Anh sẽ viết riêng một tập thơ đề tên em.

-Ông Nguyên Sa, với tên người yêu ông chỉ làm thơ một chữ thôi.

-Em là hình ảnh Lara, anh sẽ viết riêng một tập thơ mang tên em.

-Có một tập thơ của anh, em sẽ vẽ bìa.

            Ngoài con đường, có bóng một người đàn ông đạp xe đi ngang qua. Ông ta đội chiếc mũ nỉ, vừa đạp chậm rãi, vừa đưa mắt nhìn xuống dòng sông.

            Những cánh cửa sổ trên tầng ba của ngôi trường dòng bên kia đang mở. Ánh đèn từ căn phòng đó hắt ra yếu ớt,  buông rơi xuống dòng sông. Và, nhờ ánh trăng sáng, hai người nhìn thấy rõ nước dòng sông và cả hai phía bờ.

            Nguyên chợt hỏi:

-Em còn nhớ những ngày về thăm quê không ?

-Nhớ chứ.

-Mỗi nơi, cho em một tình cảm riêng phải không ?

-Quê nội nghèo, như anh nói.

-Ở đó thật hoang sơ, chỉ có biển và cát.

-Còn dòng sông thì về miền quê ngoại.

-Mẹ rất thương em.

-Em hiểu ý anh muốn nói.

            Rồi nàng tiếp lời:

-Quảng Trị, thành phố tuy nhỏ nhưng đẹp. Về các làng quê, nơi nào cũng có dòng sông chảy qua.

-Anh rất nhớ quê ngoại, qua ngôi nhà thờ, cảnh đồng ruộng và con đường đê.

-Ngày đó, mẹ anh đi chợ phiên cũng xa nhỉ.

-Con đường đê rất dài đó, buổi chiều là hình ảnh của mẹ.

-Chắc lúc nào anh cũng gần bên mẹ.

-Và, bên em nữa.

            Nguyên đặt bàn tay xuống mái tóc người yêu. Trăng thu sáng, sương đêm xuống lặng lẽ in bóng dáng những đám mây mỏng manh, lơ lửng bên kia bờ. Nga ngước mắt nhìn lên trăng, hai tay để ra đằng sau vuốt sửa lại mái tóc. Bỗng nhiên, nàng có cảm giác như  một ai đó gọi tên nàng.

            Nga chợt mỉm cười qua giấc mơ. Nguyên nhìn đồng hồ, anh hỏi:

-Em buồn ngủ chưa ?

-Chưa.

-Anh vào trại bây giờ .

-Anh lái xe một mình ?

-Không sao, đêm có trăng.

            Nga đi bên Nguyên, bàn tay nhỏ bé của nàng trong tay anh. Xe đậu bên lề đường gần bờ sông ngoài cổng. Dừng bước bên xe, Nga nói:

-Anh lái xe cẩn thận.

            Nguyên không đáp lời, anh nhìn đồng hồ tay, bỗng nói:

-Anh đưa em đi ăn.

-Khuya rồi.

-Em vào nhà đóng cửa, xong đi ăn với anh.

            Nga quay trở vào. Không lâu lắm nàng trở ra và Nguyên đã cho xe nổ máy. Khi Nga lên ghế ngồi, Nguyên cho xe chạy một đoạn tới bến cát rồi trở đầu đi về phía nhà ga. Anh chạy vòng quanh nhà ga tìm quán ăn, xong đổ về khu phố Morin và rẽ đường tới nhà Bưu Điện. Một quán ăn khuya vẫn còn mở và có khách ăn.

            Xe dừng ở bờ đường gần quán. Đêm thành phố lặng yên với bóng sáng của ánh trăng thật dịu dàng. Nguyên nhìn qua mái tóc Thiên Nga, anh nói:

-Khi nào Mỵ Châu cần sách đọc, nhớ cho anh biết.

-Sách còn nhiều, Mỵ Châu chưa đọc hết.

-Anh bỗng nghĩ, có một tu viện, Mỵ Châu ở đó với các xơ, vừa làm việc vừa đọc sách.

            Nga cười lớn tiếng. Nàng hơi dừng bước hỏi Nguyên:

-Anh nghe em kể về Mỵ Châu lần nào chưa ?

            Nguyên nhắc lại một vài chuyện, nhưng Nga cho là chưa đúng.

-Khi về nhà, em sẽ kể cho anh nghe.

            Hai người vào quán, ngồi bàn thấp ở phía ngoài. Có bún, cháo và cà phê.

-Ăn bún nghe.

            Nga gật đầu. Khi đứa nhỏ chạy bàn đi vào, Nguyên nói với Nga:

-Thụy mới viết thư về nhà, có gởi lời thăm em.

-Anh gởi thư, em có lời thăm.

-Thụy rất mong được gặp em. Nó bảo, anh gởi cho nó xem ảnh của em.

-Anh đừng gởi.

-Không gởi nó cứ nôn nao mong có kỳ nghỉ phép.

-Đến lúc về, sẽ gặp. Nếu em không ở đây, anh đưa Thụy vào Đà Nẵng chơi.

            Hai tô bún nóng để trên chiếc khay, đứa nhỏ mang ra cẩn thận đặt xuống bàn. Có chả nóng, Nga lấy hai lọn bóc lá xong bỏ vào mỗi tô. Còn nữa, mấy lát, rắc tiêu và vắt chanh.

            Hai người mời nhau ăn. Nguyên cảm thấy vị cay của ớt xông lên nóng mũi. Nga quen với vị cay, trơng nàng ăn ngon miệng.

-Tối mai anh về nhà không ?

-Chắc là không ?

-Được dẫn các cô ca sĩ đi hát tiền đồn, chắc là anh vui, trông đợi nữa phải không ?

-Những ca sĩ Sài Gòn anh quen hết ?

-Có cô nào anh bắt bồ không ?

-Không.

-Em không tin.

            Nguyên ăn chậm, thong thả. Anh nói:

-Trước khi đi lính, anh làm nghề báo. Không chỉ viết tin, làm phóng sự, anh còn phụ trách trang tân nhạc hàng tuần. Có trang này, anh dễ làm quen với các cô ca sĩ, và cô nào cũng muốn nhờ anh viết giới thiệu để có cơ hội nổi tiếng. Khi làm trang này, anh cũng đã thực hiện một thiên phóng sự  Sài Gòn về đêm qua các phòng trà.

-Các nữ ca sĩ, cô nào cũng đẹp ?

-Không hẳn.

-Anh tình nguyện đi lính hay bị động viên.

            Nguyên kể chuyện về một vị Thiếu Tá anh quen làm việc ở Cục Tâm Lý Chiến. Và đúng như lời hứa hẹn của ông, Nguyên vào Thủ Đức khóa 21, mãn khóa học xong anh được về làm việc tại phòng truyền hình ở Cục Tâm Lý Chiến. Năm 1965, truyền hình bắt đầu có và rất mới mẻ. Nhiệm vụ của Nguyên là hướng dẫn người quay phim quay những cảnh thực ngoài chiến trường, phần anh, dựa vào mỗi cảnh phim quay viết lời bình và dẫn giải. Với công việc này, Nguyên còn tạo được tên tuổi cho mình qua những cuộc phỏng vấn trực tiếp với các vị Tướng Tư Lệnh Sư đoàn, các vị Tỉnh trưởng, và anh cũng hay có mặt trong những cuộc họp báo đặc biệt của các giới chức cao cấp cả về dân sự và quân sự.

-Nhưng sao anh bỏ Sài Gòn ra ngoài này ?

            Nhìn Nga, Nguyên nói:

-Để được gặp em.

-Không đúng. Gặp nhau là sự tình cờ, không nói là chủ đích được.

            Quán ăn tới giờ đóng cửa. Khách ăn đứng dậy ra về. Nguyên vào quán trả tiền, bất ngờ gặp Lập là bạn trong nhóm sinh viên tranh đấu ngày xưa. Khi Nguyên làm Ủy viên báo chí Tổng hội anh kiêm luôn chủ bút tờ Sinh Viên Huế, còn Lập là Tổng Thư Ký. Tờ  báo khởi đầu từ sau biến cố đảo chánh 1/11/63 và kết thúc khi sứ mạng của Sinh viên đối với hiến chương Vũng Tàu hoàn thành. Thời sinh viên, Nguyên có được những tháng ngày hào hùng, lãng mạn. Nga rất thích một bức ảnh anh mặc áo sơ mi màu rêu,  hai túi xẻ, đứng trên bậc thêm ở trường Đại Học Văn Khoa. Bức ảnh, rất ăn từng nét đẹp của Nguyên qua dáng người và cặp mắt.

            Khi Lập theo Nguyên ra ngoài, gặp Nga anh bạn chào hỏi rất thân thiện. Và, khi được biết Nga học ở trường Mỹ Thuật, anh ta rất mong được xem những tranh vẽ của nàng. Hai tuần lễ tới, Huế sẽ có một cuộc triễn lãm dành cho các họa sĩ trẻ.

            Nguyên lái xe chậm tốc độ trên đường. Nga vào câu chuyện kể về Mỵ Châu, nàng nói ra cái ý tưởng ngộ nghỉnh muốn bỏ nhà đi tu, ở chùa, hay nhà thờ  cũng được, miễn là được sống xa lánh cuộc đời. Ở cái tuổi còn nhỏ, nhưng được chọn đi tu cũng là niềm vui. Nguyên cười lớn tiếng hòa nhịp cùng tiếng cười của Nga, anh ngả người dựa lưng ghế buông tay lái, sau đó, anh cầm bàn tay Nga đưa qua bên  mình và đặt lên phía trái tim.

            Nguyên thật sung sướng, rồi anh nói với Thiên Nga rằng, sự rời bỏ đô thành Sài Gòn để ra ngoài này đó là sự lựa chọn của một người lính, nhưng cũng nhờ vào đó, tạo ra cơ duyên cho anh được gặp một người mình yêu thật sự trong ước mong.

            Sương mù trôi đang bao kín dòng sông. Ánh trăng thu lan tỏa ra hơi lạnh trong đêm vắng. Về đến nhà, Nguyên dừng xe lại trước cổng, anh nói:

-Chúc em ngủ ngon.

            Xuống xe, nàng vẫn chưa vào nhà.

-Anh lái xe can than.

-Em ngủ ngon.

            Nàng mỉm cười nhìn Nguyên.

-Chắc tối nay, em không ngủ được.

 

 

 

                                                              X

 

 

 

            Trước ngày đi ra Nha Trang để dự khóa học chuyên môn ba tháng, buổi chiều Thụy đến nhà dì Hồng nhận được cùng lúc ba lá thư. Đó là thư anh Nguyên, thư  Thúy Hà , và thư  chót là của người bạn hiện nay đang dạy học dưới Vĩnh Long.

            Thư anh Nguyên nhờ Thụy mua giúp anh cuốn Tìm Hiểu Hội Họa của tác giả Đoàn Thêm,  nếu có sách thì gởi về địa chỉ ở bên nhà hoặc cho cô Thiên Nga bạn anh. Thư Thúy Hà có hai tấm ảnh kèm theo thư, đó là ảnh nàng và ảnh đứa con trai. Ảnh đứa con trai mới sáu tháng tuổi có ghi lời tặng, còn của nàng, thì không. Từ ngày xa cách, Thụy có nhiều tấm ảnh của nàng mang theo, nhưng không một tấm nào có đôi dòng chữ  nàng ghi lời tặng.

            Sau khi đọc thư xong, Thụy đón xe buýt lên chợ Bến Thành. Sài Gòn, ngày nào cũng huyên náo, xô bồ, nhưng thật là dễ sống. Xuống bến xe, Thụy đi qua khu bùng binh Quách Thị Trang đến nhà sách Khai Trí, và đi sâu vào phía bên trong cùng để tìm kiếm các loại sách chuyên môn. Thật may mắn, Thụy tìm ra cuốn sách anh Nguyên nhờ, chỉ  còn một bản duy nhất bày trên kệ. Thụy vói người lấy cuốn sách xuống, giũ bụi, xong xem lại cẩn thận những trang in có bị sót không. Thụy không thể đọc được nhiều, nhưng với tác giả anh đã có biết, và nhìn qua cách viết anh thấy người biên soạn rất là cẩn trọng,  công phu. Trong sách còn có một số phụ bản tranh in màu của các họa sĩ danh tiếng Picasso, Gaughin, Renoir, Van Gogh, Claude Monet . Bức tranh Người gieo hạt của Van Gogh rất là ấn tượng, sống động, nhưng lúc này, Thụy cảm thấy dễ chịu, yêu thích hơn hết là được xem bức tranh của người họa sĩ Pháp gốc Hòa Lan, Claude Monet. Bức tranh vẽ ở một công viên trông ra biển. Trên công viên bày ra những bàn ghế mây, có một người đàn ông đội chiếc nón phớt mắt nhìn ra biển xa, ngoài mặt biển xanh đẹp những làn sóng nước, có rất nhiều tàu và thuyền bè đang di chuyển. Bên lối hàng rào, có người phụ nữ trông dáng vẻ quí phái đang chuyện trò với một người đàn ông đứng tuổi thật lịch lãm. Người phụ nữ dáng mảnh mai, che đầu chiếc dù trắng, còn người đàn ông mặc áo veste, một tay cầm cây can. Thụy cảm thấy ngay sức tưởng tưởng tượng của mình trong khi họa sĩ  phối hợp các màu tươi sáng trên bức tranh, đáng yêu nhất là màu của các bông hoa thắm nở bao quanh công viên.

            Khi đến quầy tính tiền, Thụy đưa cuốn sách cho cô bán hàng, cô coi giá bìa xong bớt giá 15%. Cô bỏ sách vào túi nylon đưa cho anh rồi thối tiền lẻ.

             Ra khỏi hiệu sách, Thụy đến quán Mai Hương ngồi uống một ly cà phê đá. Không phải là ngày cuối tuần, nhưng Sài Gòn vẫn nhộn nhịp, huyên náo. Những dãy phố chính nằm giữa trung tâm thành phố thật tưng bừng, ồn ào với mỗi cảnh sinh hoạt. Những chuyến xe buýt rời bến,  những dòng xe du lịch, xe taxi nối đuôi nhau trên các ngả đường, người đi qua lại trên vỉa hè tấp nập, và thật sáng dịu khi bóng dáng các cô gái xuất hiện thướt tha trong những chiếc áo dài, rồi âm thanh buổi chiều nổi dậy với những tiếng nhạc mở lớn vọng ra từ các rạp hát, từng cảnh đó đã làm Thụy cảm thấy vui, tin tưởng vào cuộc sống mới mà từ những tỉnh lỵ, thành phố nhỏ bé ở ngoài miền Trung anh đã quyết chí vào đây.        

            Bây giờ, Thụy chẳng có ai quen ngoài Huê ra. Buổi chiều đang xuống, Thụy nhấp từng hớp cà phê, và đốt từng điếu thuốc, vừa cảm thấy dễ chịu. Anh yêu mến Sài Gòn, yêu thành phố như một mối tình dễ thương với Huê, và lúc này, anh nhận ra, hình ảnh của Huê cũng thật là đẹp như một bài thơ thi sĩ Nguyên Sa đã viết về thành phố này:

 

            Sài Gòn đi rất chậm buổi chiều

            Cánh tay tà áo sát vòng eo

            Có nghe đôi mắt vòng quanh áo

            Đôi ngón thơ buồn đứng ngó theo   

 

            Sài Gòn cười đôi mắt rất tròn

            Vòng cung mầu đỏ nét thu cong

            Cầu vồng bắc giữa mưa và nắng

            Hay đã đưa dần sang nhớ mong

 

            Ngồi một mình nhớ đến Huê, rồi Thụy đứng lên đến quầy trả tiền. Anh mua thêm gói thuốc, ra đường,  đi bộ tới trạm xe buýt.

            Về nhà, Thụy viết một lá thư ngắn gởi cho cô Thiên Nga nói chuyện về cuốn sách anh Nguyên gởi nhờ mua. Và, để có sự tin cậy, Thụy còn nói thêm một đôi điều để cô yên tâm khi cần đến những sách học ở trường Mỹ Thuật.

            Thụy hài lòng với lá thư mình viết ngắn gọn, suôn sẻ.

            Ngày hôm sau, Thụy lên đường đi học. Từ trạm tiếp liên ra phi cơ, thật bất ngờ Thụy gặp anh  Khanh. Anh đang trò chuyện với một người bạn cũng là phi công, thấy Thụy, anh vội ngừng chuyện tới gần bắt tay. Trong một nụ cười, anh nói:

-Anh mới đọc truyện ngắn em viết trên báo Lý Tưởng.

-Anh thấy được không ?

-Được lắm. Nhưng ai kể chuyện này cho em.

-Nhân vật trong truyện là Trung úy N. ở bên phi đoàn 217.

-Đúng rồi, N. là bạn anh. N. bay rực thăng bị trúng đạn, máy bay cháy và anh ấy bị thương tích rất nặng. Nhưng, dù cho anh bị thương tích, cô  bạn gái anh ấy vẫn giữ đẹp mối tình, và hai người đã lấy nhau.

-Em biết câu chuyện thật hay, cảm động nên viết ra.

-Hôm nay em đi đâu ?

-Em ra Nha Trang học khóa chuyên môn.

-Về ngành gì ?

-Ngành điều không.

-Không phải em làm ở báo Lý Tưởng đi công tác.

-Không, em có chỉ số ngành điều không. Báo Lý tưởng kéo em về vì thấy em có khả năng viết báo.

-Rồi học xong, thì sao ?

-Chắc là về lại Lý Tưởng.  Đại úy Hùng sẽ kéo em về, vì tờ  báo cũng cần người. Em đi học chuyên môn là để lấy bằng hưởng lương phụ cấp.

            Anh Khanh gật đầu nghe Thụy giải thích. Khi đến giờ lên máy bay, Thụy cùng hành khách vào chiếc C47, chiếc này anh Khanh là trưởng phi cơ.

            Sau hơn một giờ bay, phi cơ ra tới Nha Trang. Từ trạm tiếp liên Thụy đi bộ tới khu huấn luyện và sau khi làm xong thủ tục, anh về phòng khóa sinh sắp xếp  đồ đạc và dọn chỗ nằm.

            Ngày hôm sau, Thụy ra phố tới nhà Bưu điện gởi thư về Huế, địa chỉ nhà cô Thiên Nga ở. Khi mua sách ở Sài gòn, anh không gởi ngay, mà muốn lấy địa chỉ KBC ngoài quân trường để trường hợp thất lạc, sách sẽ trả lại cho địa chỉ người gởi. Từ câu chuyện của Phương kể về nàng, thật lạ lùng, trong trí tưởng anh luôn hình dung về nàng có khuôn mặt hiền hậu, đôi mắt đẹp, và qua dáng bước đi trong chiếc áo dài tím, thật nhẹ nhàng như  sự rung động  của cánh bướm. Thụy thật hạnh phúc khi biết anh Nguyên của mình có người yêu là nàng.

            Buổi chiều ấy, với sự mộng mơ, với lòng tơ tưởng, Thụy đi lang thang qua các phố , sau đó thả bộ  dọc con đường ven biển trở về trường. Tối đến, nằm trong phòng Thụy đọc truyện, vẫn cuốn truyện cũ Người Mỹ trầm lặng. Khi đọc cuốn này, Thụy bỗng nhớ đến Hạnh.

            Thụy  đã ra dự khóa học đúng ngày, nhưng anh em khóa sinh cùng chỉ số là bốn mươi người chưa tới đủ, mới trình diện  được mười lăm người. Còn thiếu khá nhiều, nhưng thực sự, có đủ quân số, khóa học cũng chưa bắt đầu vì còn thiếu giảng viên.

            Tới kỳ lương lãnh tiền xong, Thụy liền chuồn đi Đà Lạt. Thụy phải đi hai chuyến xe lam mới đến bến xe. Hầu hết xe đi các tỉnh xa là của hãng Trung Việt. Có hai loại, xe dài, và xe cỡ trung. Xe dài được 80 chỗ ngồi, còn cỡ trung chỉ bốn mươi chỗ.

            Khi lên xe, Thụy thấy bên chỗ cô gái đang ngồi còn ghế trống. Thụy xin phép lấy chỗ ngồi, cô gái không nói gì. Đợi hai mươi phút nữa, xe mới khởi hành. Thụy đưa mắt nhìn ra ngoài vừa thoáng ngắm vẻ mặt cô gái. Tối hôm qua, trong ảo mộng cuộc đời Thụy nghe ra tiếng nói và thấy hình ảnh người yêu của anh đi lấy chồng. Ngày hôm ấy nàng đi, hiển hiện trong giấc mơ của anh cả một cuốn phim đen trắng, và có vẻ như anh nối kết lại những bông hoa ấy thành một bó hoa trông đợi nàng. Giờ đây, một ngày đã khác.

-Cô học ở Đà Lạt ?

            Cô gái mỉm cười lắc đầu.

-Không.

            Thụy nhìn giờ qua chiếc đồng hồ đeo ở tay cô. Bỗng Thụy hỏi ý cô gái muốn được đổi chỗ ngồi phía ngoài cho thuận tiện. Không đáp lời, cô gái đứng lên và hai người đổi chỗ. Thụy nhận ra một cảm giác êm ái khi chiếc áo dài của cô chạm nhẹ tay anh.

            Với một giọng thân tình, Thụy nói:

-Ngày trước, tôi học ở Đà Lạt.

            Cô gái mỉm cười biết chàng gợi chuyện làm quen. Bỗng cô lên tiếng:

-Tôi không phải là Sinh viên.

            Thụy đáp lời:

-Bây giờ đợi xe đi lên thành phố đó, tôi cảm thấy nhớ thời đi học của mình.

-Gia đình ông ở trên đó ?

-Không.

            Tới phiên xe rời bến, người tài xế cất tiếng gọi hành khách còn đứng dưới, vừa mở cửa ghế phòng lái bước lên. Trong xe, ở hàng ghế sau có hai người đàn bà hơi lớn tiếng cãi vã nhau. Thằng lơ xe liền lên tiếng giải hòa, vừa vui với giọng đùa nghịch. Có người cười, bảo thằng nhỏ lém lỉnh. Khói thuốc lan tỏa trong xe. Người tài xế ngồi trước tay lái vẫn còn chờ ai đó, và rồi, có một người mang đến cho ông ta giấy tờ để xuất bến. Xe nổ máy, tự dưng lòng Thụy nôn nao. Nha Trang- Đà Lạt quãng đường dài hơn 200 cây số.

            Xe lăn bánh. Khi ra khỏi bến, xe còn chạy trên con phố chính đang ồn ào trong cảnh sinh hoạt đầu ngày.

-Gia đình cô ở Đà Lạt ?

-Không, ở đây. Tôi làm việc ở Ty Bưu Điện.

-Tôi có đến đó hai lần nhưng không gặp cô.

-Tôi làm hành chánh bên trong, không ngồi ở guichet.

            Không hỏi gì thêm, Thụy nhìn gương mặt cô gái. Cô không đẹp, nhưng nhìn kỹ thấy rất có duyên. Có vẻ cái nhìn trong mắt Thụy làm cô sợ, vội lên tiếng:

-Tôi có gia đình rồi.

-Tôi vẫn còn độc thân.

            Cô gái im lặng. Nắng lên cao, xe đã ra vùng ngoại ô thành phố. Ngồi ở bên ngoài Thụy đưa mắt nhìn đồng ruộng, quang cảnh vùng quê, tự dưng anh ước ao có một ngày đất nước thanh bình.

            Xe tới một trạm kiểm soát ngừng lại. Người Cảnh Sát đi dọc theo thành xe, mắt nhìn lên. Trên xe, ngoài Thụy ra có một vài thanh niên khác nữa. Viên Cảnh sát hỏi giấy tờ một vài người, lập tức họ trình ra ngay những giấy tờ tùy thân. Người Cảnh Sát coi xong trả lại rồi cho xe đi. Đây là chuyến xe khách bình thường không có người đi buôn vì trên trần không có hàng hóa.

            Có những lúc trên đoạn đường xấu xe tránh ổ ga, nhồi xóc,  lắc lư, vai Thụy và cô gái chạm nhau.

-Ông học ở Đà Lạt bao nhiêu năm ?

-Hai năm. Tôi không sinh trưởng ở đó.

-Nghe giọng nói của ông là biết ?

-Cô nói tôi người ở đâu ?

-Huế.

-Không phải. Tôi ở ngoài Quảng Trị, cách Huế gần 60 cây số.

-Ba tôi là người Huế.

-Mẹ cô người Bắc.

-Ông thật tài.

            Hai người chuyện trò, và trong lúc xe chạy, những hành khách quen hay lạ nhau cũng có chuyện nói với nhau cho đỡ buồn.

            Xe tới Phan Rang gần trưa, ghé vào bến cho khách nghỉ uống nước nửa tiếng. Nhiều người xuống, và cũng có người ngồi một chỗ. Thụy và cô gái vẫn ngồi lại trên xe. Cô gái hỏi:

-Ông làm việc ở đâu ?

-Tôi đang ở trong quân đội.

-Tôi cũng nghĩ như thế.

-Tôi ở binh chủng Không Quân, ra ngoài này học khóa chuyên môn. Ít tháng nữa, hết khóa học tôi về Sài Gòn.

-Ồ, ông ở Sài Gòn.

-Vâng.

            Hai đứa nhỏ bán quà rong mời mua nước và trái cây. Thụy  hỏi ý cô gái, xong mua hai  ly nước mía.

            Giọng thân tình, Thụy hỏi:

-Cô được mấy cháu nhỏ rồi ?

            Cô gái cười, hai tay vội vàng đưa lên che miệng để dằn lại sợ cất lớn tiếng.

-Sao ?

-Lúc nãy, tôi nói đùa với ông.

-Tôi ngắm nét duyên của cô mà cô cũng sợ.

-Ông đừng tưởng các cô gái đi một mình là dễ dãi.

            Một cách thân mật tự nhiên Thụy nắm tay nàng rồi buông ra ngay.

-Cô có mang áo ấm theo không ?

-Không.

-Lên đèo trời lạnh lắm.

-Mùa này Đà Lạt mưa.

            Thụy bật que diêm đốt điếu thuốc. Tới giờ xe chạy, hành khách trở lại chỗ ngồi. Tỉnh lỵ Phan rang nằm sát ngay bên quốc lộ. Chừng năm cây số nữa là tới đường rẽ đi Đà Lạt. Lúc này, hành khách trong xe ít còn trao đổi tiếng trò chuyện. Thụy cố gắng hồi tưởng lại những ngày tháng cũ của thời niên thiếu, trong sự gợi nhớ này, anh nhắc thầm tên và tìm đến những hình ảnh thân thương của các cô gái anh đã gặp, và tưởng như lúc này, người nào cũng thật hiền dịu mở rộng hai cánh tay đón chào anh.

            Thụy vẫn chưa nhìn thấy cuộc chiến tranh. Tin tức trên báo chí qua những bài phóng sự, tường thuật, những sự kiện đó chỉ làm nóng lên trong con người anh sự bồng bột của trí tưởng tượng, xong rồi dịu hẳn. Bây giờ đây, trên đường trở lại Đà Lạt, anh mong được thấy thành phố cao nguyên với hoa đào, đồi thông, sương mù, trước khi  đến một ngày tận mắt anh nhìn ra thấy cuộc chiến.

            Xe đang hướng con đướng đi lên Đà Lạt. Ngồi ở ngoài với từng đợt gió thổi qua, lúc mát, lúc lạnh, bỗng dưng cơn buồn ngủ tới làm mắt Thụy nặng trĩu. Thụy thiếp ngủ, thân người như có ai nhấc bổng.

            Một lúc, tiếng cô gái làm anh choàng tỉnh.

-Ông đừng có cố ý lợi dụng, giả vờ ngủ say.

            Thụy kịp đưa tay che miệng ngáp và quay mặt thở nhẹ ra ngoài.

-Xin lỗi.

-Ông ngồi thẳng người lại đi.

            Giọng mệt mỏi, Thụy nói :

-Hôm qua, tôi mất ngủ.

            Nói xong, Thụy tựa đầu lên ghế tìm lại giấc ngủ. Thụy ngủ ngon giấc không mộng mị. Và rồi, một cảm giác mềm mại, dịu êm thấm vào tâm hồn anh. Khi anh thức giấc, cô gái nhìn anh mỉm cười, và nụ cười cô gái khiến anh thèm tựa đầu mình lên  chiếc vai nhỏ bé của cô lâu hơn nữa.

-Tới đâu rồi cô ?

-Một cây số nữa, xe lên đèo.

            Thụy ngẩng đầu dậy. Để rửa mặt, anh thò đầu ra ngoài hứng gió. Gió mát đến lạnh và Thụy tỉnh người hoàn toàn.

-Cô đi Đà Lạt mấy ngày ?

-Tôi nghỉ phép hai tuần .

-Nhà cô ở ngay phố.

-Nhà tôi ở gần Bưu Điện.

-Tôi cũng đi phép, lên Đà Lạt thăm lại trường cũ.

-Ông cũng lãng mạn nhỉ.

-Tôi cảm thấy nhẹ nhõm sau giấc ngủ ngon.

-Ông tựa đầu lên vai tôi nặng quá.

-Nhưng tôi chẳng cố ý, phải không ?

-Sao, không.

            Thụy nhìn nàng thật đằm thắm, và mắt anh  đọc được một hàng chữ nhỏ trên cặp mắt của nàng. Cô gái thật có chút từ tâm, dễ mến. Và, Thụy vừa qua một giấc ngủ mềm mại trên vai cô.

            Xe đang chạy trên từng khúc quanh qua đèo Ngoạn Mục. Bên dưới đèo là nhà ga Dran. Sương mù buông trôi, tiếng dòng suối chảy như xa vắng. Từ mỗi quãng dốc, Thụy trông thấy những đám khói từ ống khói ở nhà ga dâng lên. Vừa đón cái lạnh, vừa ngửi hương thơm từ những bông hoa, từ những cây lá quanh núi rừng, Thụy có cảm tưởng mình như là người lữ khách.

            Rồi ánh nắng bừng lên trải rộng một màu vàng lụa bên dưới lưng đèo. Lúc này, xe gần tới Đà Lạt, đang chạy qua đèo Prenn.  Bên đây, đường đèo chạy men theo vách tường núi, bên dưới kia dòng suối là rừng thông. Ai cũng lắng im nghe tiếng hòa nhạc của thiên nhiên qua khung cảnh nắng chiều. Sương mù giăng mắc, và bạn nghe ra được hơi thở của những người từ đâu xa đến đây, hay là kẻ trở về lại nơi miền cao nguyên vẫn là một chốn cũ.

            Bỗng dưng, trong mắt Thụy hiện lên hình bóng Thiên Nga. Nàng thầm hẹn với anh, một ngày đó anh sẽ gặp nàng như ước nguyện.

 

 

 

                                                                XI

 

 

            Thụy ở chơi Đà Lạt đúng một tuần lễ. Khi trở lại thành phố này, trong niềm nhớ và sự xúc động anh tìm thấy lại bóng dáng mình và những kỷ niệm cũ thật là đẹp, dễ thương. Thùy đưa anh trở lại khu phố cũ có căn nhà của nàng. Rồi hôm ấy, một buổi chiều thứ năm học sinh chia nhau đi bán vé coi cuốn phim Toute la ville dance để gây quĩ cho trường. Trên đường Hai Bà Trưng dài và xa lên tới tu viện  Domaine de Marie, từng nhóm học sinh mỗi lớp cùng đi con đường này, vừa chuyện trò, đùa giỡn rất là ồn vui. Bỗng nhiên, nhìn tới phía trước có đám đông nữ sinh, Thụy bỗng nhận ra Thùy qua chiếc áo dài tím. Nàng đi giữa, và cùng các cô bạn của nàng nắm tay dang rộng choán hết cả mặt đường. Trời mưa bụi, áo tím của Thùy trong mưa mỗi lúc nhòa mờ đi, nhưng đó cũng là một nỗi nhớ ngây dại như tiếng  khóc thầm, lúc ấy, Thụy nhận ra dáng đẹp của Thùy. Về đây, Thụy cũng tìm trở lại căn gác học sinh nằm ở tầng gác ba, nơi này, anh ở cùng với nhiều bạn lưu học sinh từ  các nơi xa đến. Mỗi một thứ có trong kỷ niệm thuở ấy, giờ gợi nhắc, bỗng dưng Thụy có chút se lòng, bao dung lấy một niềm an ủi.

             Lăng và Thụy vượt ra mối liên hệ anh em bạn dì, còn là đôi bạn thân. Anh Nguyên, Lăng và Thụy ba anh em chỉ chênh lệch nhau một tuổi. Nhưng vì đã sống cùng chung những ngày thơ ấu ở quê ngoại nên ba người có sự gắn bó rất lâu dài. Lăng chăm học, trầm lặng, ít biểu lộ  tình cảm, nhưng sẽ có một ngày, Lăng nói ra hết những chuyện riêng tư của mình. Về phần Thụy đôi lúc có sự bồng bột, vụng về, nhưng bản tính chân thật, nên anh luôn có sự tự tin về con người của mình. Thụy  đã kể nhiều chuyện cho Lăng nghe, và Lăng rất hiểu bạn qua mỗi câu chuyện riêng của người đó kể.

            Trên đường Duy Tân, hai người bạn đi phía bên trái vỉa hè  đang vượt quãng dốc. Và, con đường này lại nhắc nhở Thụy nhớ đến Thùy. Buổi sáng, vào những giờ học muộn từ trường Thụy đi bộ lên tới khu thương xá chợ Hòa Bình, đứng đó đợi không lâu thấy Thùy xuất hiện, rồi cùng nhau đến trường. Thật là ân tình trong nắng ấm, trong màu cây lá xanh tươi, ảnh hình đó đã giúp cho đôi lứa tìm ra được những câu chuyện vui, những lời tỏ tình thật ý nhị, dễ thương.

-Ở xứ người có trồng cây phượng tím, Thùy biết không ?

-Không.

-Ngày nào đó, ở một nơi xa của xứ người, nhìn thấy cây này Thùy sẽ nhớ đến người bạn cũ.

-Không chắc đâu, nàng cười nhẹ và đôi mắt nhìn xa hơn.

            Mỗi ngày luôn có hai buổi học, và trước khi đến giờ học chiều một tiếng, từ trường Thụy lại đi bộ lên chỗ hẹn đón Thùy, rồi đôi bạn vẫn bên nhau, cho đến khi cảm thấy sự yêu thương và thân thiết đã thấm vào lòng , thì giọng nói bỗng nghe như đang bước chập chững, ngập ngừng, còn trong âm thầm là tiếng đập của từng nhịp tim nghe qua hơi thở thật nặng nề .

            Bên dưới con dốc, Thụy ngoái nhìn lại ngôi trường vẫn còn thấy một dãy nhà dài và sân chơi rất rộng. Xa hơn nữa, bên kia chiếc cầu là sân vận động của trường, khu sân này nằm bên cạnh đường Hai Bà Trưng vừa  trông ra con đường Calmette đi lên khu đồi bệnh viện, nơi ấy, nổi bật sáng lên một tòa nhà màu ngói đỏ.

            Thụy vui chuyện kể lại cho Lăng nghe, người bạn cười hiền hậu. Một lúc sau, với những suy nghĩ về cuộc đời, Thụy nói:

-Tôi chưa viết ra được những kinh nghiệm của con người về cuộc đời. Tôi chỉ mới viết những rung động của mình trong cuộc sống từ thời niên thiếu đến lúc này, nhưng đây là sự rung động chân thật, với những mầm hạt này một ngày kia tôi tin rằng nó sẽ mau lớn. Đường đời hay dòng đời tự nó sẽ chuyển biến, thay đổi cuộc sống ngay từ khi mình khởi sự cất bước. Qua ý nghĩ đó, tôi nhận ra sự hiện hữu về đời lính của mình.

            Rồi, anh lại tiếp lời:

-Ít ra, tôi cũng ở trong quân đội đến mười năm.

-Anh không xin đi học Sĩ quan.

-Cũng có ý định đó. Tôi vẫn mong đậu được bằng toàn phần rồi xin đi học ngành kỹ thuật.

-Năm tới, anh có thi không ?

-Có. Thời gian học của tôi ít quá, và không ổn định.

            Bến xe nằm bên trên thương xá Hòa Bình, từ chỗ này, nhìn bao quát thấy cảnh sinh hoạt chợ, các khu phố xa gần, và nhìn về phía cánh rừng trông thấy mặt hồ nước và những hàng cây trồng quanh hồ. Mỗi đầu năm, có những ngày lễ hội và tổ chức cuộc đua xe đạp.

            Bến xe còn vắng, chưa mấy khách tới bến.    Quán ăn bình dân bày những bàn ghế thấp. Ngồi ở chiếc bàn ngoài gần lối đường đi, trong một vài giây im lặng, Thụy cảm thấy một nỗi buồn vô cớ cho mình. Với nỗi buồn ấy, Thụy  chợt nghĩ đến một bóng hình thiếu nữ.

            Người chạy bàn mang bánh cuốn và cà phê ra cùng một lúc đặt trên chiếc khay và bỏ xuống bàn.

            Khi cầm đũa ăn, Thụy hỏi:

-Lăng dạy bao nhiêu giờ một tuần ?

-Mười sáu giờ ?

-Mấy môn.

-Hai môn. Việt Văn và Công dân.

-Năm tới, xong Cử nhân có đi học tiếp không ?

-Tôi chưa biết. Có thể tôi qua thi bên hành chánh.

-Chọn ngành này là đúng. Làm luật sư, có tiếng nhưng cũng khó khăn.

-Tôi không ra Luật sư. Tập sư ba năm, lâu dài lắm.

            Bữa ăn sáng ngon miệng, một dĩa bánh vừa đủ no. Thụy  ăn nhanh, cầm thìa khuấy sữa trong cà phê và uống một hớp trước khi đốt điếu thuốc. Một giọng vui, Thụy  nói:

-Hồi đi học, tôi bị một trận đòn vì hút thuốc.

-Ở trường, bây giờ trường vẫn cấm học sinh hút thuốc.

-Tại sao Lăng không tập hút thuốc.

-Tôi có thử một lần, bị sặc khói, sợ quá nên thôi. Với lại, tôi yếu phổi.

            Khói thuốc nhẹ nhàng tan. Nhìn Lăng, Thụy có một ý tưởng thầm kín. Giọng thân tình, anh hỏi:

-Cô Mai Lê tặng sách là bạn học cũ ?

            Lăng nhìn lại Thụy dò xét, rồi nói:

-Mai Lê  dạy học ở đây, trường Bùi Thị Xuân.

-Tôi có đọc cuốn thơ Tâm Tình Hiến Dâng.

-Cô tặng cho tôi.

            Vừa gợi nhớ, Lăng vừa kể cho Thụy nghe lần đầu tiên gặp Mai Lê ở thành phố này.

-Quà kỷ niệm của tuổi trẻ, lúc nào cũng là những cuốn sách, tập nhạc.

-Mai Lê hát rất hay, giọng hát ngọt như Hà Thanh.

-Cô cũng người Huế.

            Lăng gật đầu. Ít nhiều trong câu chuyện Lăng kể, Thụy hiểu. Ngồi không lâu, hai bạn rời quán, đi xuống bậc cấp con đường dốc tới bến xe. Bến xe đông người, và có nhiều tuyến đường. Khi Thụy lên xe, Lăng còn đứng ở dưới nói chuyện với anh. Bỗng nhiên, cả hai cùng hẹn một kỳ nghỉ hè về thăm gia đình. Và, qua ý tưởng đó, Thụy nhớ nghĩ nhiều đến anh Nguyên, và cũng vừa cách đây chừng tuần lễ anh đã gởi một lá thư cùng cuốn sách cho Thiên Nga.

            Với những giây phút còn lại dành cho mình hạnh phúc về thành phố có một thời mình đã sống, Thụy bỗng nhận ra rằng, mỗi thành phố là một câu chuyện tình . Thế nhưng, anh không hề mang tâm trạng của một nhân vật tiểu thuyết.

            Có tiếng còi xe của người tài xế và thằng lơ xe vừa cất tiếng báo cho hành khách.

-Anh Thụy đi nghe.

-Ờ, đến hè gặp lại ở Sài Gòn.

            Xe vừa lăn bánh. Sau cái bắt tay, hai bạn còn đưa tay vẫy chào tạm biệt. Từ bến, xe chạy xuống phía bờ hồ rồi đổi đường chính đi ra ngoại ô.

            Đến quá trưa, xe về tới Nha Trang. Thụy  ghé quán ở trong khu chợ  Đầm ăn cơm trưa,  xong đi bộ về quân trường.

            Khi Thụy trở lại , số khóa sinh đến học đã khá đông nhưng chưa đủ. Vừa gặp lại các bạn tân binh cũ, lòng Thụy rất vui, anh em ngồi tụm năm tụm ba chuyện trò, kể lại những ngày những tháng đi ra đơn vị làm việc. Mỗi đứa mỗi chuyện, chuyện nào cũng thú vị. Và, nếu như đem góp lại những chuyện này mà viết nên hồi ký, bạn đọc sẽ nhận ra đó là cuộc sống thật tầm thường, nhưng vui và chân thực của những người lính trong thời kỳ chiến tranh.

            Thượng sĩ Trạch là người phụ trách nội vụ khóa sinh. Mỗi ngày, ông đều đến để điểm danh và kiểm tra vệ sinh doanh trại. Ông rất hài lòng vì anh em giữ gìn sạch sẽ trong và ngoài. Tối đến, có thể bừa bộn chỗ ăn ở, nhưng buổi sáng và trưa, nơi mỗi giường các chăn màn đều gấp nếp để ngay hàng thẳng lối.  Thường khi đến, viên Thượng sĩ trò chuyện với anh em, cho họ biết về lịch sử của quân trường, của binh chủng Không quân qua mỗi đời Tư lệnh, và những ngành nghề kỹ thuật ở Không quân. Một vài anh em hỏi về chỉ số ngành trong khóa học của mình, ông trả lời vắn tắt đây là ngành điều không ngoài mặt trận, và cho biết thêm, học xong ở đây, anh em sẽ về hết Sài Gòn và học thêm một khóa hai tuần nữa về các loại máy truyền tin. Như vậy, thời gian hoàn tất khóa học chuyên môn sẽ là bốn tháng.

-Bằng chuyên môn, phụ cấp được bao nhiêu Thượng Sĩ ?

-Bằng các anh, phụ cấp 400.

-Sure không Thượng Sĩ.

-Tôi nói mà các anh không tin à?

-Hoàn toàn tin tưởng.

-Chúng mày có biết lính không quân còn sướng hơn là quan nữa. Chữ thọ 100%.

-Nhưng mà nghèo, chẳng khá gì.

-Đừng có ham nghe các con.

            Với cái tuổi đi lính còn non choẹt, đám trẻ ăn nói văng mạng, nhưng vẫn còn là hình ảnh của những ngày tháng thơ ngây. Thượng Sĩ Trạch cũng đã có con trai lớn học ở trường trung học , nên chi trò chuyện với lính ông hay gọi thân mật là mày tao, có khi gọi chúng là các con của bố, và những lúc vui chuyện hả hê ông cười hết sức thoải mái. Ngày nào ông cũng đến, nên tình thân anh em khóa                                       

[Còn tiếp]