logo

Nhật Ký Tin Văn


Ghi chú, tài liệu những ngày Conrad ở Congo không nhiều, chúng ta không biết tác giả có gặp nhân vật kể trên không, nhưng một tay du lịch đã nghe câu chuyện Van Kerckhoven chuyên thu gom đầu người, đó là Roger Casement, một trong những bạn tốt ở Phi châu của tác giả. Casement sau nổi tiếng vì tranh đấu cho nhân quyền, và là một nhà ái quốc Ái nhĩ lan; một trong số hiếm hoi, đen hay trắng, tác giả gặp ở Phi châu: một người suy nghĩ, giỏi ăn nói, rất thông minh, và rất có cảm tình, Conrad viết trong nhật ký về bạn. (Roger Casement 1864-1916, có thời kỳ làm cho Sở Hỏa Xa Congo. Ông sau bị người Anh treo cổ, vì hoạt động nhân quyền). Vài năm sau, cả hai chạy lại, ôm lấy nhau, trong một tiệm ăn Luân-đôn, rồi sau đó, kéo tới câu lạc bộ thể thao, Sports Club, nói chuyện cho tới 3 giờ sáng. Đó là trước khi Conrad viết Giữa Lòng Đen. Casement có tài ăn nói thật khác thường, và cái kho chuyện của ông chắc chắn đã ảnh hưởng Conrad, về viễn ảnh của một đại lục. "Anh ta có thể kể cho bạn những điều." Conrad viết thư cho một người bạn, về Casement. "Những điều mà bạn cố quên đi."
Ông là Đồ Phổ Nghĩa, tôi đoán vậy.

Trên tờ Điểm Sách Nữu Ước, số đề ngày 27 tháng Năm 2004, qua bài viết Bi Kịch Roger Casement, Colm Tóibín, hiện sống tại Dublin, tác giả những cuốn như The Story of the Night, The Blackwater Lightship [lọt vào danh sách chót giải Booker 1999], điểm một số tác phẩm mới xb về nhà ái quốc Ái Nhĩ Lan bị người Anh buộc tội phản quốc và xử tử này.

Roger Casement: The Black Diaries, tác giả Jeffrey Dudgeon, nhà xb Belfast, 659 trang, 25 Anh kim.
Sir Roger Casement's Heart of Darkness: The 1911 Documents, Angus Mitchell. Dublin: Irish Manuscripts Commission, 816 trang, 75 Anh kim.
The Eyes of Another Race: Roger Casement's Congo Report and 1903 Diary, Séamus Ó Síocháin và Michael O'Sullivan biên tập. Dublin: University College Dublin Press, 366 trang, 34.95 Anh kim [bìa mỏng].
Roger Casement in Death, or Haunting the Free State.
W.J. McCormack. Dublin: University College Dublin Press, 240 trang, 27.95 Anh kim [bìa mỏng]. Do Dufour Editions phát hành tại Mỹ. 

Trong The Rings of Saturn, W.G. Sebald kể lại, ông thấy mình ngủ gà ngủ gật khi nghe đài BBC, trong một bài nói về Roger Casement, bị người Anh xử tử vào tháng Tám 1916 về tội phản quốc. Khi tỉnh giấc, ông vẫn còn bị trí tưởng tượng đeo đuổi, vì tình bạn giữa ông này và nhà văn Conrad, một trong những tác giả ruột của ông...


TÔI    KẺ  KHÁC
tặng  Văn

1.
Tôi là kẻ khác là Rimbaud
từ bỏ văn chương chuyện lảm nhảm
thám hiểm trong rừng sâu lang bạt ngoài sa mạc
tìm mình  tìm thế giới
đời lộng gió phiêu lưu. 

Tôi là Borges thông tuệ và đui mù
tôi phán về triết học về văn hóa
lạnh đêm đông tôi thèm một tô phở
thèm được ôm được vật lộn người con gái tôi yêu
và tôi phán về triết học về văn hóa.

2.

Tôi là đứa con gái Việt nam tám tuổi làm điếm ở Nông Pênh
tôi cười cùng tên Mỹ to con ưa sờ mó con nít
 da thịt tôi rách nát xác thân tôi bầm dập
tôi mút cây cà rem
tôi thèm kẹo ngọt nước đá nhận. 

Tôi là gã thương binh cụt hai tay hai chân
là khối thịt miểng pháo kích cùng mình
trong cuộc chiến vô nghĩa
tôi thèm được làm người
được làm người, nguyên vẹn.

Tôi là gã cùi lở bò lết như côn trùng
đau buốt ngàn kim đâm
tôi thèm được làm người
được làm người bình thường
đi cày bừa có vợ con
đưa võng trưa hè, ca hát đêm trăng
tôi thèm được làm người.                                                            

3.

Tôi là kẻ đi tìm vô vọng
kẻ làm thơ viết những dòng vô ích
kẻ tìm Chúa trong chùa , tìm Phật trong nhà thờ
kẻ xé muôn nghìn mảnh
nát tan trong dòng đời hỗn độn.
tháng 1 -04
Nguyễn Hà Tuệ

PHỤ CHÚ: Tối 23-1-04 đài truyền hình Mỹ NBC chiếu phóng sự về cuộc giải thoát một số trẻ em Miên và Việt (chỉ từ năm đến mười tuổi) bị ép buộc làm gái điếm ở Nông Pênh. Trên VIỆT BÁO daily news ngày 24-2-04 có bài của Phạm Phong Dinh tường thuật lại phim phóng sự ấy.    



lo
Đi tìm nàng Lô
Lời nguyền của Kiều Nhí số một
Curse of the first Lolita

1989. Trong một bài viết sau tác phẩm, Nabokov kể lại, phút hạnh ngộ giữa ông và cô bé kiều diễm, thời gian ông bị những cơn đau đầu thường trực hành hạ. Và một thoáng nàng - la palpitation de Lolita - đã lung linh xuất hiện, khi ông đọc mẩu báo, thuật câu chuyện về một nhà bác học đã thành công trong việc dậy vẽ cho một chú khỉ ở một vườn thú. "Tác phẩm đầu tay" của "con vật đáng thương" là hình ảnh mấy chấn song của cái chuồng giam giữ nó.

Trong chuyến đi dài chạy trốn quê hương, trong mớ sách vở vội vã mang theo, tôi thấy hai cuốn, một của Nabokov, và một của Koestler.
Tôi đã đọc "Darkness at Noon" qua bản dịch "Đêm hay Ngày" do Phòng Thông Tin Hoa Kỳ xuất bản cùng một thời với những cuốn như "Tôi chọn Tự do"... Chúng vô tình đánh dấu cuộc di cư vĩ đại với gần một triệu người, trong có một chú nhỏ không làm sao quên nổi chiếc chuồng giam giữ thời ấu thơ của nó: Miền Bắc, Hà-nội.
Lần thứ nhì bỏ chạy quê hương, cùng nỗi nhớ Sài-gòn là sự thật đắng cay mà tuổi già càng làm thêm cay đắng: Một giấc mộng, dù lớn lao dù lý tưởng cỡ nào, không thể làm sống lại, chỉ một sợi nắng ấm Sài-gòn: Trong những đêm chập chờn mất ngủ, hồn thiêng thành phố thức giấc trong tôi, tôi lại tưởng hồn ma của chính mình đang lang thang trên những nẻo đường xưa cũ, cố tìm cách sống lại phần đời đã chết theo cùng với Sài Gòn, bởi cái phần đời đó mới đáng kể.
Tôi đọc lại Nabokov và lần ra sợi dây máu mủ, ruột thịt giữa tác giả-nhà văn lưu vong-con vật đáng thương-nàng nymphette tinh quái. Đọc lại Koestler để hiểu rằng, tuổi trẻ của tôi và của bao lớp trẻ sau này, đều bị trù yểm, bởi một ngày mai có riêng một con quỷ của chính nó: Miền Bắc, Hà-nội.
[NQT: Lần Cuối Sài Gòn]. 

Vào một dịp khác, Nabokov cho biết, một thoáng nàng đã tóm lấy ông, vào cuối 1939 đầu 1940 ở Paris. Lần đầu ông viết bằng tiếng Nga, nhân vật không tên sau có tên là Humbert Humbert, là một gã Trung Âu,còn kiều nhí, một em đầm vô danh, nơi chốn:Paris và Provence. Sau đó, ông chán, "và huỷ bỏ nó". Nhưng sau lại kiếm thấy, và được xuất bản với cái tên "The Enchanter" [Ảo Thuật Gia].
Trong mục Sổ Tay số 26 tháng Ba, tờ TLS cho biết, theo nhà phê bình người Đức, Michael Maar, một thoáng nàng xẩy ra ở Berlin, chứ không phải ở Paris, và cũng không xẩy ra cho nhà văn Nga, mà một người Đức tên Heinz von Lichberg, một ký giả sau có cảm tình với Nazi. Truyện ngắn Lolita, 20 trang, được xuất bản vào năm 1916. Theo TLS, Nabokov sau 1916 có sống ở Berlin, và có thể đã đọc Lolita, và "bậc thầy" [the master] đã biến truyện ngắn tầm thường kia ["It is not a great artistic merit], thành một tác phẩm văn học [a work of art].

Trên tờ TLS số tiếp theo, ngày 2 tháng Tư, Michael Maar kể lại cuộc đi tìm nàng Lô của ông.