logo





 

:::Quỳnh Giao :::

Vòng Tay Bát Ngát Thanh Tâm Tuyền

 

 

Nhà thơ Nguyên Sa là ông thầy Trần Bích Lan duyên dáng, dạy triết mà khiến học trò mê thơ. Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền là ông thầy Dzư Văn Tâm khắc khổ, dạy Việt văn mà như là dạy triết.

 

Vào lớp, Thanh Tâm Tuyền ngửng lên trời, dạy văn cho lũ học trò mà như đối thoại với Thượng Ðế. Cái chất duy nhất rất người của ông là mười đầu ngón tay vàng những khói thuốc. Chúng tôi học ông được sáu tháng thì thầy xếp bút nghiên theo nghiệp đao cung. Ông nhập ngũ và thày Võ Thu Tịnh dạy thay...

 

Suốt tuần qua, từ khi nghe tin Thanh Tâm Tuyền đã ra đi, mọi người đều nhắc đến kỷ niệm của mình với nhà thơ. Kỷ niệm trực tiếp của Quỳnh Giao thì chỉ có vậy. Nhưng gián tiếp lại đầy ắp qua những vần thơ được phổ nhạc của ông. Dễ hát dễ nhớ thì có Dạ “Tâm” Khúc của Phạm Ðình Chương, khó hát hơn và đậm đặc chất Thanh Tâm Tuyền là Lệ Ðá Xanh do Cung Tiến phổ nhạc.

 

Thanh Tâm Tuyền có thể làm thơ cổ luật hay thơ mới bảy chữ như trẻ em đánh đàn theo Methode Rose, dễ như ăn kẹo ăn bánh. Nhưng ông là người khó và khổ nên làm mới thơ mới với những rung động mà một nhạc sĩ hay họa sĩ có thể cảm được, chứ người khác thì thấy ù tai hoa mắt, đọc đi đọc lại, may ra có ngày bừng hiểu. Sau ngày được giải phóng nên đi tù, ông trở lại lối thơ có vần có điệu, như một ông già trở về quê cũ sau một tuổi trẻ giang hồ đập phá...

 

Thơ Thanh Tâm Tuyền phải được đặt trong vị trí “di cư” và “chiến tranh” của một thành phố mở ra thế giới bên ngoài là Sài Gòn. Không có hoàn cảnh hay khung cảnh ấy, người ta khó cảm hay yêu thơ của ông. Nhưng thơ của ông không chỉ là khung cảnh ấy, đánh giá một họa phẩm từ bức khung là cái tội. Thơ của ông được thai nghén trong hoàn cảnh chinh chiến nhưng vươn khỏi hoàn cảnh để xoay ngược về làm đẹp cho hoàn cảnh và nhờ đó tồn tại mãi khi những điều kiện cũ không còn nữa.

 

Sài Gòn thời chiến tranh, với đạn bom ầm ì trong đêm và lính Mỹ ồn ào ban ngày vẫn là một thủ đô văn hóa và trung tâm văn nghệ tỏa sáng chính là nhờ lớp văn nghệ sĩ như Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Hoài Bắc, Thanh Nam, v.v... Ðêm Màu Hồng là nơi giải trí thanh lịch mà cũng là tên một ca khúc lấy ý thơ từ Thanh Tâm Tuyền. Sài Gòn có một chút Paris cũng do Dạ Khúc của Thanh Tâm Tuyền.

 

Ngay trong chiến tranh, chúng ta vẫn là người văn minh là nhờ phong thái nghệ thuật ấy, nhờ những vần thơ đã được âm nhạc chắp cánh cho bay bổng ra khỏi cảnh thê lương chết chóc. Viết đến đây, Quỳnh Giao bỗng thấy bàng hoàng. Thơ Thanh Tâm Tuyền nổi tiếng dữ dội khi chiến tranh đã lên đến tột đỉnh tàn phá, nhưng đọc lại thì không có một lời về đạn bom. Là một sĩ quan trong quân đội, ông không quay lưng lại chiến tranh. Ông chỉ nhìn xa hơn, cao hơn. Ngày xưa, có lẽ thầy Tâm dạy học cũng như vậy.

 

Thanh Tâm Tuyền viết thơ tình không một chút trữ tình như thế hệ đi trước. Giữa tiếng đại bác, ông nghe thấy “tiếng kèn hát mãi than van” và nhìn thấy “điệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng”. Ông làm thơ như một họa sĩ siêu thực “tìm cánh tay nước biển - con ngựa buồn - lửa trốn con ngươi”, như một nhà luân lý “vục xuống nhục nhằn tổ quốc - nhìn gót giày miệng uống tro than”. Ông viết văn cũng vậy.

 

Không khí bức bí ngột ngạt của Bếp Lửa hay Một Chủ Nhật Khác cũng quan trọng như cốt truyện, và còn để lại dư vị buồn thảm khi mình đã quên bẵng cốt truyện. Thơ và văn của ông có nhiều não tính, tràn đầy những trúc trắc làm mình phát bực. Nhưng vượt qua được những thác ghềnh sỏi đá ấy - chữ của Mai Thảo - người đọc lại nhìn ra được cái hợp lý hiền hòa nằm sâu bên dưới những phi lý của vần điệu, của đời sống.

 

Quỳnh Giao cảm nhận được điều này từ một cái may, là người trình bày các ca khúc xuất phát từ thơ Thanh Tâm Tuyền, từ những vần điệu thời Sáng Tạo đến Vang Vang Trời Vào Xuân thời Trần Kha sau những năm tù đày.

 

Thơ Thanh Tâm Tuyền thì không thể ngâm mà nên đọc và càng nên hát. Trí tuệ trong thơ ông gợi hứng cho Phạm Ðình Chương hay Cung Tiến, nhịp điệu rất trẻ và rất mới trong thơ ông càng khiến ca khúc phổ nhạc có tiết tấu riêng và trở thành những ca khúc nghệ thuật. Nếu cần nói với người ngoại quốc một chút tinh hoa văn học nghệ thuật của miền Nam trong 21 năm tự do, có lẽ ta nên giới thiệu Bài Ngợi Ca Tình Yêu, một tác phẩm tuyệt vời về nhịp điệu của Phạm Ðình Chương, trích từ bài thơ rất dài cùng tên của Thanh Tâm Tuyền. Và Lệ Ðá Xanh được Cung Tiến phổ nhạc với rất nhiều chuyển đoạn và chuyển cung tài tình, độc đáo, khiến Phạm Ðình Chương thích thú đến độ lấy hẳn một câu nhạc của bài hát này để kết thúc tác phẩm Nửa Hồn Thương Ðau...

 

Ðiều đáng tiếc là các ca khúc Cung Tiến phổ thơ Thanh Tâm Tuyền sau thời tù đày là loại kén người hát, với giai điệu đòi hỏi những luyến láy uyển chuyển có trình độ nhạc lý khá cao của người hát. Các ca khúc này có thể mai một dần. Từ loại rong ca kiểu ballade dễ hát với một cây đàn thùng đến loại nhạc Vang Vang Trời Vào Xuân, chúng ta đã đi một bước quá xa nên bỏ rơi nhiều người thưởng ngoạn.

 

Nếu có những sinh hoạt tưởng niệm Thanh Tâm Tuyền, người ta nên cố gắng giới thiệu cả các ca khúc phổ thơ ông viết trong cảnh tù đày ở miền Bắc dưới bút hiệu Trần Kha...

 

 

Sau khi

 

Anh xô ngã em từ chóp đỉnh hạnh phúc

Khuôn mặt vỡ tan như cẩm thạch

 

chính ông đã ngã trên núi khi đi vác nứa ở Yên Báy, mà vẫn làm thơ, phơi phới:

 

Tuột dốc té nhào trên hẻm núi

Chết điếng toàn thên trong giây lâu

Mưa rơi đều hạt mưa phơi phới

Ngày đang tàn hiu quạnh rừng sâu.

 

Thơ Thanh Tâm Tuyền vượt khỏi hoàn cảnh và là vòng tay bát ngát ôm được những nỗi đau của nhân thế, ở mọi nơi, mọi thời.

 Nguồn