logo

Ẩn hả, nhớ chứ




 

NGƯỜI ĐIỆP VIÊN CS... YÊU THÍCH NƯỚC MỸ

Đời sống hai mặt của thông tín viên tuần báo Time ở Saigon trong chiến tranh Việt Nam 

Trần Mạnh

“Đây là Phạm Xuân Ẩn hiện có mặt tại Saigon,” người thông tín viên cuối cùng của tuần báo Time ở Việt Nam điện về trụ sở chính của báo này ở Nữu Ước ngày 29 tháng 4, 1975: “Tất cả những thông tín viên người Mỹ đã được di tản khẩn cấp khỏi Saigon. Văn phòng của báo Time hiện đang được điều khiển bởi tôi là Phạm Xuân Ẩn.” 

Ẩn tiếp tục gởi thêm ba bản báo cáo nữa từ Saigon trong khi quân đội Bắc Việt tiến sát vào thành phố. Sau đó đường giây liên lạc bị cắt đứt. Trong thời gian một năm sau đó, với Ẩn trong chức vụ thông tín viên độc nhứt của báo Time ở Việt Nam sau chiến tranh, báo này lần lượt viết đăng những bài như “Buổi Từ Biệt Ảm Đạm Cuối Cùng”, “Kẻ Thắng Trận: Những Người Làm Nên Chiến Thắng” và “Saigon: Một Tuần Lễ An Bình dưới chế Độ Cộng Sản.” Ẩn là một trong 39 thông tín viên ngoại quốc làm việc cho tuần báo Time khi văn phòng báo này đóng cửa và tên của Ẩn đã được xóa khỏi danh sách phóng viên trên trang đầu của báo kể từ ngày 10 tháng 5, 1976. 

Được công nhận là một phân tích gia chính trị giỏi và bắt đầu sự nghiệp trong những năm 60 với thông tấn xã Reuters và sau đó với các báo New York Herald Tribune và The Christian Science Monitor và sau cùng phục vụ cho tuần báo Time với tư cách là thông tín viên trong 11 năm, PXA dường như nổi bật nhứt trong công việc trao đổi các nguồn tin với các đồng nghiệp khác tại quán cà phê Givral trên đường Catinat cũ. Mỗi buổi chiều tại đây, PXA trình bày những nguồn tin sống động nhứt ở Saigon. Anh được mệnh danh là “Khoa Trưởng của Giới Báo Chí Việt Nam” và “Tiếng Nói Đài Radio Catinat” mà mọi người gọi là Xưởng Phát Tin Đồn. Với lối trào phúng hợm hỉnh, anh cho biết thích được gọi là “Docteur de sexologie” (Bác sĩ tình dục học), “Professeur coup d’état,” (Giáo sư môn đảo chánh), “Commander of Military Dog Training” (Sĩ quan chỉ huy huấn luyện quân khuyển) - ý nói đến con chó berger luôn sát cánh với Ẩn - “PH. D. in revolutions” (Tiến sĩ về các cuộc cách mạng), hoặc đơn giản là “General Givral” (Tướng Givral). 

Giờ đây chúng tôi biết rằng Ẩn thực hiện một lúc hai nhiệm vụ, một: là của một phóng viên - nhiệm vụ này ít thành công hơn - và công tác kia là thường xuyên gởi cho Bắc Việt những tài liệu quân sự mật và các thông tin viết bằng một thứ mực không đọc được, nhưng những bản thông báo đánh máy của Ẩn, hiện được giữ kín trong văn khố lưu trữ tình báo của Việt Nam mà chúng tôi được biết một cách gián tiếp, chắc chắn sẽ được đánh giá là một kiệt tác của Ẩn. Với chiếc máy đánh chữ hiệu Hermes mà cơ quan tình báo Bắc Việt đặc biệt mua cho anh, Ẩn viết những bản báo cáo vào lúc ban đêm, vài bản báo cáo này có khi dài cả trăm trang. Được chụp ảnh và chuyển đi dưới dạng những cuồn phim chưa rửa, những bản báo cáo của Ẩn được người mang đến vùng địa đạo Củ Chi, nơi đặt bản doanh dưới lòng đất của bộ đội Cộng Sản. Bắt đầu từ năm 1952, cứ mỗi vài tuần Ẩn đích thân lái xe khoảng 20 dặm Anh đến khu rừng Hố Bò nằm về phía Tây Bắc thành phố Saigon, chui xuống địa đạo ngầm để bàn thảo chiến lược với Cộng Sản. Từ Củ Chi, những bản báo cáo đó được vội vã chuyển tải cẩn mật dưới sự bảo vệ của bộ đội đến núi Bà Đen sát biên giới Cam Bốt, từ đây được chuyển bằng xe tới Nam Vang và bằng phi cơ tới Quảng Đông, Nam Trung Hoa, và sau cùng mang tận tay tới Bộ Chính Trị ở miền Bắc Việt Nam. Những báo cáo của Ẩn quá sống động và tỉ mỉ đến nỗi Tướng Giáp và Hồ Chí Minh được báo cáo là rất thích thú nhận được những tin tức từ Trần Văn Trung, bí danh của Ẩn. Theo lời những ủy viên Bộ Chánh Trị, hai nhân vật này reo vui: “Chúng ta đang ở trong phòng hành quân của Hoa Kỳ.”

Khi Saigon thất thủ, Ẩn, cũng như các đồng nghiệp thông tín viên khác, hy vọng được di tản sang Hoa Kỳ. Cơ quan quân báo của Cộng Sản Việt Nam có kế hoạch tiếp tục cài Ẩn hoạt động tại Hoa Kỳ. Bộ Chính Trị đoán biết sẽ có một chiến dịch khác sau chiến tranh Việt Nam, đó là thời kỳ vận động chính trị quyết liệt trong đó Hoa Kỳ sẽ có thể thực hiện những hoạt động quân sự không công khai và một cuộc phong tỏa kinh tế đối với Việt Nam. Vậy ai có thể xuất sắc hơn PXA trong việc gởi về từ Mỹ những ý định của Hoa Kỳ? Trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, gia đình Ẩn gồm vợ và bốn đứa con rời Việt Nam bằng phi cơ đến định cư tại thủ đô Hoa Thinh Đốn. Ở Saigon, PXA nôn nóng chờ nhận chỉ thị để bay đi sum hợp với gia đình, nhưng lệnh đến từ Bộ Chính Trị không cho phép Ẩn rời Việt Nam.

Ẩn được tôn vinh Anh Hùng Quân Đội Nhân Dân, được ban cho bốn huy chương và thăng cấp Thiếu Tướng. Nhưng Ẩn cũng được gởi vào một trại cải tạo, nơi đây Ẩn không được phép giao tiếp những người Tây phương đến thăm viếng. Gia đình Ẩn được chuyển trở lại Việt Nam sau một năm ở Mỹ. Đảng Cộng Sản Việt Nam nhìn xa thấy rằng họ có vấn đề với Phạm Xuân Ẩn vì Ẩn yêu thích nước Mỹ và những người Mỹ cùng với những giá trị dân chủ và tính vô tư của ngành báo chí ở Hoa Kỳ. Ẩn coi Mỹ Quốc như là một kẻ thù tình cờ mà trong tương lai kẻ thù này sẽ trở lại thành một người bạn sau khi nhân dân Việt Nam dành được độc lập. Ẩn là một người "Việt Nam Thầm Lặng", một mẫu người tiêu biểu với một lý tưởng cách mạng thuần thành và với lòng chiêm ngưỡng nhiệt tình đối với Mỹ Quốc. Anh thường nói anh không bao giờ dối ai, rằng anh cung cấp những bài phân tích chính trị cho báo Time mà anh đã gởi cho Hồ Chí Minh. Anh là một người bị xẻ đôi có lòng trung chính cao độ, một người sống với sự giả dối nhưng lại nói toàn sự thật. 

“Câu chuyện về Ẩn chợt làm tôi chú ý đến một điều về nhà báo Graham Greene,” David Halberstam, bạn của Ẩn và là phóng viên của báo Time ở Việt Nam, nói. “Điều đó dẫn tới những câu hỏi căn bản: Lòng trung thành là gì? Tinh thần yêu nước là gì? Sự thật là gì? Bạn là ai khi bạn đang nói ra những sự thật ấy?”. David Halberstam tiếp, “Ẩn có một tình cảm nước đôi mà chúng ta không tài nào tưởng tượng ra được. Nhìn lại, tôi thấy Ẩn là một người có một tâm trạng xẻ đôi.”

Trong cuốn sách viết hồi năm 1965 về Việt Nam, “The Making of a Quagmire” (tạm dịch: Một Thế Sa Lầy Đang Thành Hình), David Halberstam mô tả Ẩn như là nhân vật chủ chốt của “một mạng lưới tình báo nhỏ nhưng xuất sắc” của những nhà báo và nhà văn. Ông viết rằng Ẩn “lúc ấy có những liên lạc quân sự tốt nhứt ở Việt Nam.” Vậy thì ngày nay khi biết được tiểu sử gián điệp của Ẩn liệu Halberstam có thù hận đối với Ẩn không? “Không,” Halberston nói, phản ảnh ý kiến của hầu hết những cựu đồng nghiệp của Ẩn. “Đấy là một tiểu sử đầy lừa lọc, hỏa mù và hư ảo, nhưng tôi nghĩ mình vẫn có cảm tình với anh. Hồi ấy tôi chưa bao giờ bị phản bội bởi Ẩn. Anh ấy bắt buộc phải sống một đời sống của người Việt Nam trong một thời điểm bi đát của lịch sử họ, trong đó mọi người sống trong sự phản bội.” 

Thành phố Hồ Chí Minh - hay là Saigon mà mọi người vẫn gọi - là một địa điểm thương mãi tập trung. Phố xá chứa đầy những dãy xe đẩy hàng rong rao bán đủ mọi thứ từ thức ăn như phở đến đĩa nhạc nhỏ, ồn ào tiếng rú của loại xe gắn máy hai thì nhập từ Trung Quốc, với khói xe dày đặc đến nỗi các cô gái nổi tiếng xinh đẹp của Saigon phải dùng khăn choàng che kín mặt. “Chúng tôi trở thành tín đồ Hồi Giáo hết,” đó là lời nói của Việt, người lái xe Honda ôm của tôi đưa tôi đi khắp thành phố. 

Trước khi xe đến gần nhà Ẩn, một căn biệt thự ở quận 3 gần một ga xe lửa trong khu xóm đông đúc, chúng tôi chạy qua một ngã tư đầy những tiệm sửa xe gắn máy và đến một con đường chuyên bán cá thia thia mà Ẩn rất thích. Tôi giựt chuông gắn ở cổng sắt màu xanh. Từ trong nhà những con chó bắt đầu sủa vang và qua khe cổng tôi thấy Ẩn xuất hiện lào xào tiến ra trên lối đi. Ẩn khổ người dong dỏng cao trong chiếc áo sơ-mi sọc cụt tay túi có gắn bút bi và chiếc quần xám ống rộng đập nhẹ vào hai chân bước đi trong đôi dép cao su. Ẩn mở cổng trong tiếng thở hổn hển nhưng nở một nụ cười chào đón tôi với một cái bắt tay rời rạc bằng những ngón tay mà thôi. Vừa qua Ẩn đã được đưa vào bệnh viện chữa trị một lá phổi ngưng hoạt động, hậu quả của một đời người hút toàn thuốc Lucky Strikes, nhưng ông "Tướng Givral", với nụ cười toe tét, trông vẫn còn tinh quái tuy đã ở tuổi 78.

Lần sau cùng mà tôi đến thăm Ẩn là vào đầu thập niên 90 khi tôi đang viết một cuốn sách về những đứa trẻ Mỹ lai - kết quả của những mối tình giữa lính Mỹ và những người phụ nữ Việt Nam. Tôi có gởi tặng Ẩn cuốn sách này sau khi xuất bản, và bạn bè của hai chúng tôi cũng có tặng anh vài cuốn sách khác của tôi nhân dịp họ viếng thăm Việt Nam. Ẩn biết tôi có ý định nghe chính Ẩn thuật lại cuộc đời của anh. Từ ngày Việt Nam mở cửa cuối thập niên 80, Ẩn tiếp rước niềm nở những người được chính quyền cho phép đến thăm anh. Trong những cuộc thăm viếng này, Ẩn thường ngồi hàng giờ liền, giải thích lịch sử và văn hóa của Việt Nam. Nhưng có một đề tài mà Ẩn không bao giờ nói đến: đó là đời sống gián điệp của Ẩn. Dường như anh cố giữ kín ý nghĩ của mình cho đến hơi thở cuối cùng như là một sự thủy chung đối với các bạn của mình hay là sợ bị chính quyền trảû thù. Tuy nhiên, hồi tháng Giêng năm 2004 tôi nhận được tin là sau cùng Ẩn có thể bật mí, không phải trong những cuộc phỏng vấn công khai, mà là trong những buổi mạn đàm riêng tư thân mật. Những cuộc gặp gỡ thân mật giữa tôi và Ẩn xảy ra trong dịp Tết Nguyên Đán năm đó và tái diễn trong vài tuần lễ trong tháng 5 khi mùa mưa bắt đầu. (Tôi lại được tiếp chuyện với Ẩn một lần nữa trong vài hôm trong tháng 3, 2005). 

Ẩn đưa tôi vào nhà ngang qua 1 ngôi vườn trồng nhiều cây trái nhiệt đới phảng phất mùi hương các loài hoa lý, hoa lan nở rộ. Dưới những gốc cây một con quạ và ba con gà trống đá hau háu nhìn tôi từ trong những lồng chuồng của chúng. Chúng tôi dừng chân trong khu vườn để ngắm tượng sành của một trong những chú bergers yêu quí của Ẩn. Ẩn cho biết anh học cách sử dụng chó trong hoạt động tình báo từ đại tá Edward Lansdale, nhân viên Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ, một mẫu tình báo viên giả tưởng trong quyển sách "The Quiet American" (Người Mỹ Thầm Lặng) của tác giả Graham Greene. “Tôi huấn luyện con chó của tôi để nó có thể báo động tôi khi cảnh sát đang lục xét các tư gia cách tôi khoảng một cây số,” Ẩn nói. “Nó là một điệp viên giỏi. 

Hiền thê của Ẩn, bà Thu Nhàn, đang quét dọn cửa chính bằng một cây chổi cán ngắn. Bà Thu Nhàn trẻ hơn Ẩn tới 10 tuổi, tính vui vẻ với một gương mặt tròn trĩnh và một búi tóc sau ót. Bà đang bận rộn lau quét nhà cửa trước khi nhiều khách sẽ đến viếng trong dịp Tết, kể cả cô con gái hiện đang sống ở tiểu bang California. Ẩn treo nhiều lồng chim ở ngay cửa chính và trên những cây sào cắm dọc lối đi. Trong lồng có loài chim thích hét, chim sẻû đầu vàng, chim ác là, chim yến và các loại chim hót khác. Một con sáo Ấn Độ màu xanh lá cây với chiếc mỏ vàng rực cất giọng bằng tiếng Việt: “Ông nội ơi, có điện thoại cho ông!” Chim bắt chước tiếng nói của đứa cháu nội của Ẩn, hiện đang sống chung nhà cùng với ba người con trai lớn của Ẩn. 

Chúng tôi bỏ giày dép bước vào một phòng rộng dùng làm văn phòng và thư viện và nơi đây gia đình tiếp khách và ăn uống hàng ngày. Những kệ với những cánh cửa kính được kê sát tường phía trong chứa đầy những sách. Một bức tranh thủy mạc Trung Hoa được treo trên vách sau chiếc sô-pha bọc vải và ghế tựa màu xanh lá cây. Dưới cánh cửa sổ mở rộng và dựa vào tường là một bể cá nuôi, một trong ba thú tiêu khiển của Ẩn. Anh tâm sự rằng chó là loài thú trung thành, chim luôn nhảy nhót trong lồng, lúc nào trông cũng bận rộn. “Cá dạy cho mình phải kín miệng. Thật không may, trong lúc tôi ở bệnh viện, cá của tôi chết gần hết.” 

Căn phòng này được thay đổi từ sau lần viếng thăm trước của tôi. Ở khoảng trống nhỏ gần cửa chính, chiếc bàn viết và vài tủ đựng hồ sơ và những chồng sách báo giấy tờ cao nghệu gần đụng trần nhà của anh được thay thế bằng chiếc dương cầm của đứa con trai. Về sau, tôi phác giác sự thay đổi này khi hai chúng tôi đi ngang qua chiếc bàn thờ gia đình và bước ra lối đi phía sau nhà xuyên qua nhà bếp. “Đây là chỗ vợ tôi vứt hết giấy tờ của tôi,” Ẩn nói, chỉ vào hai tủ đựng hồ sơ màu xám và chiếc bàn viết với đống giấy tờ ngả màu vàng được che phủ lên bằng một tấm vải nhựa nhỏ để chống nắng mưa gió bụi. 

Khi chúng tôi chăm chú vào đống giấy chồng chất ở lối đi, Ẩn nói đùa: “Vợ tôi bảo đã đến lúc nhường chỗ cho thế hệ trẻ, nhưng tôi chưa có thể ra đi được. Tôi chưa tìm được nơi nào để ra đi. Địa ngục thì dành cho bọn gian manh, nhưng có quá nhiều kẻ gian manh ở Việt Nam. Họ chiếm hết chỗ ở địa ngục rồi còn đâu.” 

Ẩn có đôi tai lõng thõng, vầng trán cao và vuông, tóc đen cắt sát đầu và cặp mắt nâu lanh lợi. Mắt trái hơi to hơn mắt phải, cho thấy dường như anh đang có cái nhìn thế sự vừa sâu vừa cạn. Trong những hình anh chụp trong thập niên 50 cho thấy anh trang phục gọn gàng với chiếc áo sơ-mi trắng và quần tây đen, trông anh giống như một trong những chàng trai trẻ chững chạc gia nhập một hội nam sinh nào đó để nắm vững phương cách giao tế xã hội. Ẩn có một vóc dáng cao hơn người Việt Nam bình thường, từng là một tay võ sĩ và tay bơi lội hay càu nhàu, có lần nghĩ rằng, sau khi thi trượt hai lần ở học đường, anh có thể trở thành một tên găng-tơ. Ẩn không muốn nói gì về anh cả. Anh nói bây giờ có rất nhiều chuyện phải nhớ. “Quả thật rất khó khăn, vì nhiều chuyện quá dài dòng. Vã lại, tôi đã già rồi.” Nhưng sau đó, ngã người ra phía trước, anh bắt đầu nói về anh, nhắc lại từng chi tiết nhỏ những cảnh ngộ của 50 năm về trước. Anh quơ hai tay với những ngón tay dài xương xẩu và gần như mờ nhạt vì tuổi già. Anh nắn bóp không khí trước mặt anh như thể nặn một ổ bánh bột, xong thỉnh thoảng đấm tay vào đấy. Anh lồng những nhận xét của anh trong triết lý tam cang ngũ thường của Khổng Tử, hoặc vẽ trong không khí hình thể của một trong những nữ thần mà anh nói đã phù hộ anh thành công trên đường đời. Ẩn có thể nói hàng giờ về những biến thiên trên thế giới và đưa ra những so sánh, chẳng hạn như giữa Iraq và Việt Nam (anh nói những kỹ thuật khai triển ở Á Châu nay đã được chuyển sang vùng sa mạc), hay đánh giá những hoạt động tình báo trên thế giới (“Người Mỹ xuất sắc trong việc thu thập tin tức tình báo, nhưng họ không biết làm gì với những gì đã thu lượm được.”

Ẩn sinh ngày 12 tháng 9, năm 1927, tính theo Việt Nam là năm Mão, giờ Sửu, cách Saigon khoảng 30 cây số về phía Đông Bắc trong bệnh viện tâm thần Biên Hòa, một cơ sở y tế độc nhứt ở Nam kỳ cho phép người Việt Nam vào trị bệnh. Là con đầu lòng của một viên chức cao cấp thuộc thành phần trí thức của bộ máy hành chánh thuộc địa, Ẩn được cái danh dự hiếm có mang giấy khai sanh thuộc địa Pháp. 

Cố tổ của Ẩn gốc ở Hải Dương, trung du Bắc Việt Nam vùng Đồng Bằng sông Hồng Hà đông đúc dân cư, nằm giữa Hà Nội và miền duyên hải. Ông là một thợ bạc được triều đại nhà Nguyễn thu dụng làm những huy chương vàng và bạc cho triều đình ở Huế, miền trung Việt Nam. Ông nội của Ẩn là một viên chức được thăng cử làm giáo viên và hiệu trưởng một trường tiểu học nữ sinh. Trong bức ảnh bán thân đặt trang trọng trên chiếc bàn thờ, ông mang trước ngực một trong những chiếc huy chương vàng thời ấy. Chiếc huy chương này do Hoàng Đế trao tặng có hình dáng hoa tulip được gọi là Kim Khánh, có nghĩa là ông nội của Ẩn giữ chức vụ ngang hàng với một thư ký trong chính phủ. Sau đó, Ẩn cho tôi xem một ảnh của Ẩn hồi còn bé, cổ đeo chiếc huy chương này. Tôi hỏi Ẩn còn giữ nó không. “Huy chương đã gởi biếu cho Hồ Chí Minh trong chiến dịch thu vàng rồi,” Ẩn nói, nhắc tới một cuộc hối lộ vĩ đại mà Hồ dâng cho lực lượng chiếm đóng Trung Quốc năm 1945 để thuyết phục họ rút khỏi Bắc Việt sau Thế Chiến Thứ Hai.

Thân phụ của Ẩn tốt nghiệp kỹ sư tại trường đại học Hà Nội, là viên chức đo đạc đất đai và thiết lập những ranh giới địa ốc và thuế thổ trạch ở biên giới phía Nam của Việt Nam. Ông vẽ những đường bộ ở Saigon xuyên qua khu rừng U Minh, dọc theo vịnh Xiêm La. Trong thời gian làm việc ở xứ Chùa Tháp, ông gặp thân mẫu của Ẩn, một di dân nửa từ miền Bắc. Bà là một người cần cù, học vấn ở cấp hai tiểu học vừa đủ để cho bà biết đọc và viết. Nhiệm vụ của một viên chức đo đạc đất đai ở vùng đất chưa khai phá ở miền Nam Việt Nam bao gồm việc cưỡng ép những người nông dân khuân vác giây xích sắt lội xuyên qua các bãi lầy vùng sông Cửu Long và xây đắp những trụ cột cao trong rừng rậm để đặt giây nhắm hướng. “Khi khảo sát đất đai và đào đắp kinh mương và đường xá, tôi thấy những người Việt Nam nghèo khó vất vả kiếm lấy miếng ăn,” Ẩn nói. “Tôi thấy sự cưỡng ép lao công, đánh đập và những lạm dụng khác của bộ máy cai trị của người Pháp. Bởi vậy, tranh đấu giành độc lập là con dường duy nhứt để chấm dứt các tệ nạn ấy.” Ẩn tiếp: “Người Mỹ cũng đã hành động tương tự hồi năm 1776. Gia đình tôi luôn yêu nước trong ý muốn đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam.” 

Lúc còn rất bé, Ẩn sống trên một chiếc xuồng trong khu rừng tràm ở cực Nam Việt Nam, có lần suýt chết chìm trong một cơn bão đánh bật Ẩn xuống nước. Sau đó Ẩn được gởi ra sống với ông bà nội ở Huế, trở vào Nam sau khi bà nội qua đời, và được gởi ra miền Bắc trở lại khi Ẩn thi hỏng cấp ba. Thân phụ anh tách anh ra khỏi các anh chị của anh bằng cách đày anh về sống ở làng Truồi, nơi mà đời sống thôn dã với những nông dân, những tưởng làm anh khiếp sợ mà học hành chăm chỉ hơn. Trái lại, Ẩn rong chơi đánh đáo suốt ngày trong làng. Khi Ẩn thi trượt một lần nữa, anh bị cha trừng trị bằng những ngọn roi và chuyển xuống Saigon để khép anh vào khuôn phép gắt gao hơn. 

Ẩn tỏ ra yêu thích Saigon, lúc bấy giờ là một tiền đồn thuộc địa có lối sống uể oải với những đồn điền cao su bao quanh. Ẩn nô đùa dọc bờ sông Saigon, đu đưa trên cành cây si và nhảy tùm xuống nước. Ẩn làm bạn với những thợ thuyền sở Ba Son và những người này thường đúc cho Ẩn chơi những đồng tiền ngộ nghĩnh. Ẩn hay nhảy lên xe điện đi vào khu người Trung Hoa ở Chợ Lớn rồi lộn ngược về một rạp chiếu bóng gần cầu Đakao để xem những phim với Johnny Weissmuller trong vai Tarzan đu từ cây này qua cây khác trong rừng. “Đấy là giấc mơ đẹp của sự tự do trong rừng rậm,” Ẩn nói về những phim Tarzan trên. “Tôi nghĩ rằng dưới chủ nghĩa Cộng Sản, tôi sẽ sống một đời sống của Tarzan. Tôi đặt giấc mơ này vào cuộc cách mạng.”

 Là một phân tích gia chính trị, Ẩn biết quá nhiều chủ nghĩa Cộng Sản đã giết hại hàng triệu người trong thế kỷ 20, và trong thâm tâm anh cũng biết những hạn chế của chế độ Cộng Sản mà anh hiện đang sống. Nhưng là một người thanh niên trẻ yêu nước, anh đã không có một chọn lựa nào khác hơn là tham gia vào cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập.

 Khi Ẩn được 18 tuổi và là học sinh của trường trung học College de Can Tho, Ẩn bỏ trường và gia nhập vào khóa huấn luyện của Việt Minh. Khóa huấn luyện có hơn 100 tân binh, nhưng chỉ có vỏn vẹn 50 khẩu súng trường, trong đóù có vài khẩu còn sót lại từ cuộc thế chiến thứ nhứt. Các tân binh phải dùng các vỏ đạn cũ để chế lại đạn mới. Tuy có tham gia tác chiến chống quân Nhựt và sau đó quân viễn chinh Pháp, Ẩn không xác nhận điều này, mà anh nói chỉ làm nhiệm vụ lặt vặt ở hậu phương mà thôi. Nhưng một trang mạng vi tính của chánh phủ nhắc lại những hoạt động của Ẩn là Anh Hùng Quân Đội Nhân Dân và là một “chiến binh tham gia vào tất cả trận đánh ở miền Tây của Nam Việt Nam.”

 Đến năm 1947, Ẩn rời bỏ chức vụ trung đội trưởng chuyên hoạt động tuyên truyền, trở về Saigon để chăm sóc thân phụ được giải phẫu lấy đi một lá phổi và phải nằm điều trị bịnh lao phổi ở bịnh viện trong 2 năm. Trong thời gian này, Ẩn tổ chức những cuộc biểu tình xuống đường của sinh viên ở Saigon, lúc đầu chống Pháp về sau thì chống Mỹ. Ẩn được thu dụng làm thư ký cho hãng dầu Caltex cho đến năm 1950 lúc anh thi đổ chức thanh tra quan thuế Pháp.

 Trong lúc dân miền Nam tưng bừng đón Tết Nguyên Đán năm 1952, Ẩn được triệu vào khu rừng phía Bắc Saigon để gặp gỡ những cán bộ Cộng Sản đang thành lập Trung Ương Cục Miền Nam. Cơ quan này sẽ lãnh đạo cuộc chiến chống Mỹ, được xem là kẻ thù chủ yếu đang bắt đầu thay thế quân Pháp trước khi Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhứt chấm dứt năm 1954. Ẩn lấy làm vui sướng nhận được lịnh vào chiến khu, nơi mà anh hy vọng gặp lại người chị ruột đã đi ra khu ba năm trước đó và trở thành xướng ngôn viên của đài phát thanh Cộng Sản “Tiếng Nói Nam Bộ.” Thỉnh thoảng Ẩn vào chiến khu thăm chị để cung cấp lương thực hay thuốc men, có khi trải qua đêm dưới hệ thống đường hầm của Việt Minh. Để tránh khỏi bị máy bay thám thính Pháp phác giác, những người sống dưới đường hầm này phải thông thoát khói lửa nấu nướng qua các lỗ của những gò mối. (Năm 1955, chị của Ẩn được chuyển về Bắc làm việc ở các mỏ than quốc doanh.)

 Ẩn thất vọng khi biết tin không được ở lại chiến khu cùng với chị. Ngược lại, anh được tuyển mộ làm gián điệp cho cơ quan tình báo Việt Nam vừa mới thành hình. “Tôi là người gián điệp đầu tiên,” anh nói. Ẩn không hài lòng với nhiệm vụ mới này, cho đó là một việc làm đê tiện. Anh nói làm gián điệp như thể là những con chó săn, như chim rình mồi. “Trong những cuộc xuống đường của sinh viên ở Saigon, tôi bị cảnh sát đánh đập, bởi vậy tôi không bao giờ có ý muốn làm một con chim rình mồi hoặc một kẻ chỉ điểm.”

 Cái khó khăn đầu tiên của Ẩn khi lén lúc trở lại Saigon với nhiệm vụ mới là một điệp viên là làm cách nào tránh bị gọi nhập ngũ vào lực lượng thuộc địa Pháp. Ẩn bắt đầu học tiếng Anh ở Phòng Thông Tin Hoa Kỳ ở Saigon và tình nguyện làm việc không lương cho sở bưu điện chánh trong chức vụ kiểm duyệt báo chí. Tại đây anh được chỉ thị bôi đen những bản tin do Graham Greene đánh đi các báo Anh và Pháp. Người Pháp liệt kê Graham Greene là “kẻ khuấy rối,” nghi ngờ ông hoạt động cho tình báo Anh quốc trong những lần viếng thăm Việt Nam thường xuyên của ông.

 Ẩn được chính thức kết nạp vào đảng Cộng Sản năm 1953 trong một buổi lễ tại rừng U Minh dưới sự chủ tọa của Lê Đức Thọ, người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và là người sau này tham gia hòa đàm trong bốn năm liền với Henry Kissinger tại hòa hội Ba Lê. Mai Chí Thọ, em trai của Lê Đức Thọ và trưởng cục an ninh của lực lượng Cộng Sản ở miền Nam, là người trực tiếp chỉ huy Ẩn.

 Mặc dù hoạt động với tính cách tự do cho Phòng Nhì, cơ quan tình báo của Pháp, Ẩn cũng bị gọi nhập ngũ năm 1954. Để tránh khỏi bị gởi ra chiến trường vào những ngày tàn chót của cuộc chiến tranh thuộc địa ở Đông Dương, Ẩn phải nhờ đến những móc nối của gia đình mà ở Việt Nam mọi việc đều nhờ vào những quan hệ họ hàng với nhau. Ẩn cầu cứu với người anh họ là Đại úy Phạm Xuân Giai, trưởng Phòng 5, cơ quan chiến tranh tâm lý Bộ Tổng Tham Mưu quân đội miền Nam, thăng ngay cho Ẩn cấp bực thượng sĩ, cấp bực hạ sĩ quan cao nhứt, phục vụ tại Tổng Tham Mưu đặt tại đường Galliéni, Chợ Lớn.

 Tại đây, Đại tá Edward Lansdale khám phá ra năng khiếu của Ẩn khi ông đến giúp đỡ Đại úy Giai về mặt tổ chức cũng như tiền bạc. Lansdale trước kia làm việc trong ngành quảng cáo và là một chuyên viên tâm lý chiến, được gởi sang Việt Nam để điều khiển những hoạt động bí mật của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ. Đến Việt Nam ngay sau khi quân đội Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, Lansdale nhận thấy Phòng 5 và bộ máy quân sự thuộc địa cũ ở trong tình trạng hỗn độn, hoàn toàn mất tinh thần và không biết phải tự điều hành ra sao cho đến khi Lansdale, với một tổ chức được đặt cho cái tên ít gây chú ý là Phái Bộ Quân Sự Saigon, bắt đầu biến đổi miền Nam Việt Nam thành một quốc gia có một quân đội, một ông tổng thống và một lá quốc kỳ.

 Nhận thấy Ẩn là một môn sinh trẻ có triển vọng, Lansdale và các đồng nghiệp của ông khởi sự truyền dạy cho Ẩn những mánh khóe tình báo mà trong 20 năm sau đó Ẩn dùng trong những hoạt động điệp báo cho Cộng Sản. “Thầy dạy tôi chính là Sherman Kent,” Ẩn nói, liên hệ đến người giáo sư trường Đại Học Yale đã giúp Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ thiết lập cục Tình Báo Chiến Lược. Trong một tài liệu kinh điển “Nhiệm vụ Tình Báo Chiến Lược Trong Chính Sách Quốc Tế Của Hoa Kỳ” hồi năm 1949, Kent viết rằng đấy là một “nhiệm vụ thông tín” dựa trên căn bản điều nghiên những “nhân vật lãnh đạo” trên thế giới. Kent nhấn mạnh: “Nhiệm vụ này đòi hỏi phải hiểu rõ cá tính, tham vọng, ý kiến, những điểm yếu của những nhân vận đó, cũng như những ảnh hưởng mà họ có thể hành sử hoặc những ảnh hưởng dẫn họ đến thất bại. Nhiệm vụ này cũng đòi hỏi phải biết rỏ những bạn bè và thân nhân của những nhân vật lãnh đạo đó, cũng như những môi trường hoạt động chính trị, kinh tế và xã hội của họ.”

 Phạm Xuân Ẩn, người hoạt động tình báo tâm lý chiến, bắt đầu áp dụng phương pháp “thông tín” trên một cách tài tình trong khi làm nhiệm vụ là thông tín viên cho tuần báo Time. “Thông thường người ta chỉ có một nghề để sinh nhai, còn tôi thì có tới hai công việc cùng một lúc: hoạt động cho cách mạng và làm công tác của một nhà báo,” anh nói với nhà văn Nguyễn thị Ngọc Hải, người đã viết một bài chuyên khảo về cuộc đời của Ẩn. “Hai nghề nghiệp này mâu thuẫn với nhau, nhưng về bản chất rất giống nhau. Nhiệm vụ tình báo bao gồm việc thu thập và phân tích tin tức và khư khư giữ nó cho riêng mình như mèo cố che lấp những gì nó thải ra. Mặt khác, nhà báo lấy tin, phân tích và đăng tin đó lên mặt báo cho mọi người cùng biết.”

 Là một điệp viên tứ trùng, vừa đi đêm với Phòng Nhì của Pháp, vừa là nhân viên của Phòng 5 tình báo của người anh họ, vừa hoạt động cho Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ, và vừa làm gián điệp cho những người chỉ huy Cộng Sản của mình, Ẩn thường trực sống trong trạng thái kinh dị. “Tôi không có được một phút thư thái,” Ẩn nói. “Là một điệp viên, sớm hay muộn gì tôi cũng sẽ bị bắt, như cá trong ao. Tôi phải chuẩn bị tinh thần cho một cuộc tra khảo trong tương lai. Số phận ấy như đã dành sẵn cho tôi.”

 Thật là một an ủi nho nhỏ cho Ẩn khi hầu hết những đồng nghiệp ở Phòng 5 đều ở trong trạng thái bất an tương tự. “Những khi chúng tôi không bí mật dò xét lẫn nhau thì chúng tôi nằm bên mâm đèn hút thuốc phiện và cùng nhau sinh hoạt như những người bạn,” Ẩn nói. “Đấy là phương cách xử thế để mọi công tác được trôi chảy. Tôi đã phải đóng khung ngăn chia từng phần tình cảm của tôi.” Anh nhìn nhận lối sống này quả thật khó khăn. “Nhưng không phải lúc nào bạn cũng ra tay giết người được. Khi chiến tranh chấm dứt, họ là những người mà tôi sẽ sống chung với nhau.”

 Chính Mai Chí Thọ và Mười Hương, người chỉ huy trực tiếp của Ẩn, đã quyết định gởi Ẩn qua Mỹ để được huấn luyện về ngành báo chí. Trong một cuộc phỏng vấn của báo Thanh Niên, Mười Hương cho biết ông nảy sanh ý kiến huấn luyện Ẩn thành một nhà báo khi liên tưởng tới trường hợp của Hồ Chí Minh đã từng là một phóng viên. Việc huấn luyện Ẩn trở thành một nhà báo là một ngụy trang toàn hảo của một điệp viên, cho phép anh đi tới hang cùng ngõ hẻm và tiếp cận với những nhân vật có quyền lực. Kế hoạch đã được cấp lãnh đạo cao nhứt của Bộ Chính Trị chấp thuận, nhưng phải mất nhiều năm mới được thực hiện. Lúc này thân phụ của Ẩn đang chết dần trên giường bịnh. Ẩn được cấp một học bổng của chánh phủ nhưng sau đó bị thu hồi và trao cho một người khác có những móc nối tốt hơn. Tiếp đó, thông hành xuất ngoại của Ẩn bị các viên chức do người Pháp huấn luyện ngày xưa ngăn chận lại vì họ không muốn thấy một sinh viên Việt Nam được gởi sang Mỹ học. Đảng Cộng Sản cũng gặp những khó khăn trong việc tìm ra cho đủ số tiền cho kế hoạch này. Sau cùng, Mai Chí Thọ vơ vét được 80 ngàn đồng, tương đương với khoảng 1,000 Mỹ kim lúc bấy giờ, chỉ đủ mua một vé máy bay và bốn bộ quần áo mới cho Ẩn. Thân phụ của Ẩn chết trong tay anh tháng 9, 1957. Một tháng sau đó, Ẩn bay đến Costa Mesa, tiểu bang California, xin ghi tên vào năm thứ nhứt của trường đại học cộng đồng ở đây.

 Là một người gián điệp Cộng Sản 31 tuổi, một cựu viên chức quan thuế và một chuyên viên chiến tranh tâm lý, Ẩn bắt đầu đời sống của một sinh viên của trường Orange Coast College, do một cố vấn quân sự Mỹ ở Việt Nam giới thiệu cho Ẩn. Có thể anh là một người Việt Nam đầu tiên sống ở quận Cam (hiện nay là nơi cư trú của 150,000 người Việt Nam). Được các bạn học gọi là đức Khổng Tử, Ẩn học các môn khoa học chánh trị, chính quyền Hoa Kỳ, kinh tế, xã hội, tâm lý, tiếng Tây Ban Nha và báo chí. Anh thường được giao phó hướng dẫn trông nom các nữ sinh 18 tuổi của trường trong các buổi sinh hoạt ngoài trời ở bãi biển và tốn nhiều công sức vào tờ báo The Barnacle của nhà trường. Thỉnh thoảng anh có viết bài đăng trên báo, như bài phê bình cuốn phim “The Quiet American” - bản phim đầu tiên chống cộng phỏng theo cuốn sách của Graham Greene. Nhận thấy cuốn phim có thể gây hoang mang cho người xem, anh đề nghị “không chiếu phim này ở Việt Nam.”

 Ẩn mô tả hai năm ở Mỹ, kể cả thời gian anh tập sự tại tờ báo Bee (con Ong) và tại Liên Hiệp Quốc, là “thời gian độc nhứt tôi sống một cách thoải mái vắng những lo âu.” (Những cuộc viếng thăm tất cả những tiểu bang Hoa Kỳ của anh được đài thọ bởi Asia Foundation (Quỹ Tài Trợ Á Châu) mà về sau được phát giác là thuộc Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ). Anh đâm ra yêu thích nước Mỹ và anh cũng yêu luôn cả một phụ nữ Mỹ, cô Lee Meyer, một cô gái tóc vàng mềm mẫm duyên dáng từng là biên tập viên của báo The Barnacle và cũng là người luyện anh viết báo. “Cô ấy biết tôi phải lòng với cô, nhưng tôi không bao giờ thố lộ cho cô biết,” Ẩn nói. “Người Việt Nam chúng tôi không bao giờ nói rỏ thực sự điều mình muốn.” Những năm nắng ấm mà Ẩn sống ở California là thời gian đen tối nhứt của lịch sử Việt Minh ở miền Nam. Họ là những người Cộng Sản ở lại dưới vĩ tuyến 17 khi Việt Nam bị chia đôi vào năm 1954. Cho đến năm 1959, gần 85 phần trăm lực lượng Việt Minh - khoảng 60 ngàn người - bị giết hoặc bị bắt. Trong một bức thư có mã số nhận được từ người em trai, Ẩn hay tin Mười Hương, người chỉ huy trực tiếp của anh, đã bị bắt và đang bị tra tấn. Ẩn cũng biết tin anh bị gọi về vì Việt Minh sắp sửa tái sinh thành Việt Cộng và đang phát động một cuộc đấu tranh vũ trang để mở màn cho một trận chiến lần thứ hai ở Đông Dương.

 Ẩn vẫn còn nhớ rõ hôm anh đứng trên Cầu Golden Gate vào tháng 10 năm 1959, suy nghĩ miên man xem nên làm gì trong những ngày sắp tới. Nằm trong túi áo anh là vé máy bay trở về Saigon. Xa xa dưới chân cầu nhô lên một trụ tháp lẻ loi và những bức tường bê tông của nhà tù ghê rợn trên đảo tí hon Alcatraz. Anh sợ đấy là một điềm không tốt cho số phận đang chờ đợi anh ở Việt Nam - những năm dài chịu tra tấn và bị nhốt trong chuồng cọp ở nhà tù quái ác trên đảo Côn Sơn. Mấy hôm trước đó anh được mướn dạy Việt ngữ tại trường sinh ngữ quân đội Mỹ tại thành phố Monterey. Anh có những lựa chọn, hoặc có thể bay sang Cuba để từ đó trở về Việt Nam xuyên qua xứ Nga, hoặc anh có thể tìm một cuộc sống lưu vong ở Ba Lê. Nhưng sau cùng, người yêu nước luôn trung thành với tổ quốc với chiếc hành lý đựng bốn bộ quần áo mà Đảng Cộng Sản Việt Nam mua cho nhận thấy có bổn phận phải quay về với nhân dân, và anh đáp máy bay về Saigon.

 “Như nữ ca sĩ Josephine Baker, tôi có hai mối tình,” Ẩn nói. “Tôi yêu tổ quốc tôi và tôi cũng yêu luôn Hiệp Chủng Quốc. Khi chiến tranh chấm dứt, tôi muốn thấy hai quốc gia này kết hợp lại với nhau.”

 Bước chân trở lại Saigon, Ẩn quá khiếp sợ đến nổi phải tự giam mình trong nhà cả tháng trời. Sau đó anh bạo gan, qua những móc nối của gia đình, nhờ đến sự giúp đỡ của Trần Kim Tuyến. Là cựu y sĩ giải phẫu trong quân đội, Tuyến với vóc người thấp bé nhưng rất tài giỏi, phụ trách bộ máy tình báo của Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu. Dưới sự bảo trợ của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ, hệ thống điệp viên và lực lượng mật vụ rộng lớn này hoạt động ngoài phạm vi của nội các chánh phủ dưới nhãn hiệu êm dịu là Sở Nghiên Cứu Chánh Trị, Văn Hóa và Xã Hội. Nếu được Tuyến thu dụng, Ẩn nghĩ rằng anh sẽ an toàn không phải vào tù, ít nhứt là trong thời gian trước mắt.

 Ẩn được Tuyến giao phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm việc tại Việt Tấn Xã. Nhiều người trong số này vì không được huấn luyện hành nghề phóng viên nên chưa bao giờ viết được một bài báo. Khi Ẩn bắt họï mỗi tuần phải viết một câu chuyện, họ phàn nàn với Tuyến rằng làm công tác báo chí sẽ gây trở ngại cho nhiệm vụ tình báo của họ là chính. Ủng hộ đường lối của Ẩn, Tuyến chỉ thị cho những phóng viên ngoại quốc phải “thực hiện công tác giao phó một cách nghiêm chỉnh” bằng cách bắt đầu viết những bài vở như Ẩn đang làm như “một nhà báo chuyên nghiệp.”

 Tuyến bị thất sủng sau một cuộc đảo chánh thất bại của quân đội. Ẩn rời Việt Tấn Xã, được hãng thông tấn Reuters thu dụng và sau đó trở thành phóng viên của tuần báo Time. Được công nhận là một người làm báo siêng năng cần cù nhứt ở Saigon và luôn sẵn sàng giúp đỡ các đồng nghiệp bằng cách cung cấp cho họ những ý kiến cập nhựt của anh và những mẩu chuyện đáng chú ý. Ẩn đưa ra những tin tức để có thể có được những tin tức khác. Nói với cô Ngọc Hải về những điểm giống nhau giữa người làm báo và người làm gián điệp, Ẩn nói: “Thức ăn của họ là những tin tức và những tài liệu. Cũng như các con chim, mình phải cho nó ăn luôn để nó tiếp tục hót.”

 “Tôi có được mọi thứ nguồn tin tức từ quân đội, cơ quan tình báo, và cảnh sát mật vụ,” Ẩn nói. “Tư lịnh các ngành quân đội và các sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt cùng Hải Quân và Không Quân đều giúp đỡ tôi.” Đổi lại các nguồn tin tức dồi dào đó, Ẩn trao cho những điềm chỉ viên Nam Việt Nam tin tức mà anh đã gởi cho những người chủ nhân Cộng Sản của anh. “Trong khi chúng tôi bàn thảo những tài liệu này thì những người lãnh đạo miền Nam Việt Nam ra sức tìm hiểu xem những tài liệu đó có ý nghĩa gì. Cái khó khăn của họ là sẽ đối phó với những người Mỹ như thế nào?” Về phần Ẩn, anh khuyến nghị người Mỹ về cách thức đối phó với người Việt Nam. Đó là một trò chơi của sự tín nhiệm cao độ, với lưỡi hái tử thần sẽ giáng xuống đầu nếu Ẩn bị phát giác sao chụp lại những bản kế hoạch chiến lược và báo cáo tình báo mà những người Nam Việt Nam và người Mỹ cung cấp lén lút cho anh.

 Có khi Ẩn phải thức suốt đêm chụp lại những tài liệu đó và giấu những cuồn phim trong những cuốn nem nướng Ninh Hòa hay trong bụng những con cá bắt đầu ương thối. Những con cá và cuốn nem được dâng cúng ở những đám ma chay trong những giỏ mây. Một cách khác nữa là vào buổi sáng anh dẫn con chó berger của anh dạo trong trường đua ngựa và lén đặt những cuốn nem nướng vào một tổ chim trống trên cành cây cao. Anh thường chôn giấu số lượng phim cao dưới tấm mộ bia mà anh nói là của gia đình. Thỉnh thoảng vợ Ẩn đi xa xa phía sau để hộ tống anh để nhở anh bị bắt thì bà có thể báo động ngay cho những người đưa tin của anh.

 Trong việc sử dụng các hình thức đặt giấu tài liệu hoặc chuyền tay trực diện với người đưa tin, hoặc qua máy phát sóng nối kết anh với bộ chỉ huy quân đội ở miền Bắc thông qua Trung Ương Cục Miền Nam, Ẩn được sự hỗ trợ của hàng chục tình báo viên quân sự Cộng Sản đặc trách hợp tác với anh. 17 trong số 45 người chuyên mang các bản thông tin và tài liệu của anh ra khỏi Saigon bị bắt và giết chết. “Nhiều lần trước khi tôi thi hành sứ mạng ngoài vùng Saigon, tôi và vợ tôi đều đồng ý rằng nếu tôi bị bắt, điều tốt nhứt là tôi bị giết chết ngay,” Ẩn nói với Ngọc Hải. “Thật là khủng khiếp nếu tôi bị tra tấn để khai những tin tức có phương hại tới sinh mạng của nhiều người khác. Đôi khi trong tình huống hiểm nguy, trong khi hai tay tôi giữ được vững vàng thì hai chân tôi run lên như cầy sấy không sao kềm hãm được. Mặc dù tôi cố gắng giữ bình tỉnh, nhưng những phản ứng tự nhiên của thân hình tôi làm tôi ớn lạnh vì sợ.”

 “Ẩn là một điệp viên có tầm quan trọng to lớn đối với những người Cộng Sản, không những về phương diện thu thập tin tức cho miền Bắc, mà còn về phương diện đối chiếu với tin tức nhận được từ các nguồn khác,” ông Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ, nói. Snepp là tác giả cuốn sách “Decent Interval” (tạm dịch: “Khoảng Cách Thích Đáng”) nói về sự sụp đổ hỗn loạn của Saigon năm 1975, hiện là nhà sản xuất tin tức truyền hình ở Los Angeles. “Ẩn được quyền sử dụng tin tức tình báo chiến lược. Điều đó ai cũng thấy rõ,” Snepp nói. “Nhưng không ai hoạt động âm thầm sau lưng chúng ta mà đã gây nhiều tác hại như Ẩn. Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ không chấp nhận được điều này.” Snepp đưa ra trường hợp của Robert Shaplen, phóng viên của báo The New Yorker. Ẩn và Shaplen là hai bạn thân và cũng làø hai cộng tác viên. Hai người thường tự nhốt mình hàng giờ trong căn phòng của Shaplen ở tầng 3 khách sạn Continental Palace, thỉnh thoảng bước ra ngoài bao lơn để không ai nghe lén được những lời nói của họ. Shaplen là một trong những phóng viên được chúng tôi ưa chuộng, Snepp nói. “Chúng tôi được lịnh từ cấp cao nhứt cho phép Shaplen được ra vào tòa đại sứ và tiếp cận với những tài liệu tình báo cấp cao một cách dễ dàng không thể tưởng tượng được.

 “Chúng tôi ước tính có chừng 14,000 điệp viên hoạt động ở miền Nam Việt Nam, và những người Cộng Sản thâm nhập vào tận sào huyệt của đối phương. Chính quyền miền Nam lúc bấy giờ quả thật giống như một ổ phóù-mát Thụy Sĩ có nhiều lỗ thủng.” Miêu tả những bước ngoặc của chiến tranh, chẳng hạn như những cuộc họp mật của Henry Kissinger ở Ba Lê và quyết định của chánh phủ Nam Việt Nam hồi năm 1975 triệt thoái khỏi các vị trí ở Tây Nguyên, Snepp nói, “Những người Cộng Sản được thông báo những việc gì đang xảy ra trước khi Tòa Đại Sứ Mỹ được biết”.

 “Chúng tôi không biết mức độ tham nhũng trong chánh phủ Nam Việt Nam,” Snepp tiếp, “Chúng tôi không muốn biết chúng tôi đang phò trợ một con ngựa không thích hợp. Trường hợp này cũng giống như ở Ba Tư hay Iraq hay bất cứ một quốc gia nào khác, nơi mà chúng tôi ủng hộï những chánh quyền tham nhũng. Dĩ nhiên Ẩn rất muốn biết những điều đó. Anh biết rằng dưới những điều kiện như vậy ở miền Nam, kế hoạch Việtnam hóa sẽ không bao giờ đạt được kết quả.”

Những cuộc trò chuyện hàng ngày của tôi với Ẩn đã bắt đầu đi vào một khuôn mẫu. Tôi đến cổng nhà vào buổi sáng và giật chuông. Ẩn sột soạt hướng ra trên lối đi và với bàn tay xương xẩu nắm bắt tay tôi. Chúng tôi dạo bước qua khu vườn, ngắm những con gà trống và các con chim đang hót, vuốt ve hai chú chó nhỏ được cột gần cửa chính và sau đó chúng tôi ngồi xuống nói chuyện hàng giờ trong phòng khách. Ẩn nói rất nhỏ gần như thì thầm nhiều khi bị át đi bởi tiếng ồn xe cộ ngoài đường. Lúc lâu sau, tôi đổi chỗ ngồi từ chiếc sô-pha sang chiếc ghế kế bên Ẩn. Giả vờ chỉnh lại chiếc máy nói cường âm gần miệng Ẩn, tôi nhoài người ra phía trước kề sát mặt Ẩn để nghe cho rõ hơn. Giống như Jean-Paul Sartre, người thích tham gia vào những cuộc bàn luận chánh trị qua khói tỏa của cốc cà-phê tại quán Café de Flore, Ẩn ít khi nhìn nhận mình có những hành động liên quan tới chiến cuộc, ngoài nhiệm vụ thông tín của anh là quan sát và phân tích những biến động đã xảy ra. Nhưng chúng tôi biết trong nhiều dịp Ẩn núp ở sau bức màn nhung chỉnh đốn hiện tình. Một trong những dịp đó là trận chiến ở Ấp Bắc năm 1963, đánh dấu một bước ngoặc trong việc mở rộng cuộc chiến của quân đội Mỹ. Lần đầu tiên, Việt Cộng tác chiến ở cấp tiểu đoàn và giành được một chiến thắng quyết định chống lực lượng Việt Nam được sự hỗ trợ của trực thăng, xe thiết giáp và pháo binh Mỹ. Hai cán binh Việt Cộng nhận được huy chương chiến công cao nhứt của Bắc Việt sau chiến thắng này là chỉ huy trưởng lực lượng Cộng Sản, và người kia không ai khác hơn là Phạm Xuân Ẩn, người đã vạch ra chiến lược giành thắng lợi.

Ẩn xuất hiện rõ nét ở chiến trường một lần nữa trong cuộc tấn công Tết Nguyên Đán, một cuộc tổng tấn công vào trên 100 thành phố miền Nam và các mục tiêu khác trong những ngày đầu năm âm lịch 1968, lúc đôi bên hưu chiến. Kế hoạch tiến công này đã được soạn thảo từ hai năm trước đó, khi mà thủ trưởng mạng lưới tình báo của Ẩn, một viên Đại tá với biệt hiệu là Tư Cang, di chuyển từ chiến khu về Saigon. Tư Cang nổi tiếng là một tay cao bồi vui tánh và niềm nở, thường đeo hai khẩu súng lục K-50 hai bên hông và có thể bắn trúng mục tiêu cách xa 50 thước bằng tay trái hoặc tay phải. Từng là một cựu học sinh ưu tú của một trường trung học Pháp ở Saigon, Tư Cang đã sống dưới những địa đạo ngầm ở Củ Chi quá lâu năm nên khi xuất hiện trở lại ở Saigon anh không còn nhớ làm thế nào để mở cánh cửa xe hơi. Ẩn thay đôi dép đi rừng của Tư Cang bằng đôi giày mới và mua một lô quần áo mới cho Cang mặc. Chẳng bao lâu Ẩn và Tư Cang xê dịch trong thành phố trên chiếc Renault 4 mã lực của Ẩn như hai người bạn thân cũ.

 Giả vờ ba hoa về những con chó và những trận đá gà, họ quan sát những mục tiêu cho cuộc tiến công trong ngày Tết. Tư Cang đề nghị đánh phá Kho Bạc để lấy tiền. Ẩn có ý kiến là nhắm vào mục tiêu Kho Bạc là sai "vì nơi đây chỉ là nơi phát lương cho công chức." Ẩn nói mục tiêu tốt nhứt là tòa án, nơi chứa rất nhiều vàng tịch thu trong những vụ án xử những tên cướp và bọn buôn lậu. Ẩn đề nghị Tư Cang mang theo một bình khí đốt hơi để phá tủ sắt.

 Tư Cang chọn ra 20 mục tiêu ở Saigon, trong đó có Dinh Độc Lập và Tòa Đại Sứ Mỹ, và đích thân chỉ huy trận đánh vào Dinh Độc Lập. Tại đây, 15 trong số 17 thành viên của toán Tư Cang bị giết ngay trong những giây phút tiến công đầu tiên. Tư Cang chạy thoát được về trốn tại một ngôi nhà gần đó với hai khẩu súng luôn chĩa vào đầu, nguyện sẽ tự kết liễu đời mình thay vì để bị kẻ thù bắt sống. Ngày hôm sau, Tư Cang và Ẩn lái xe chạy quanh thành phố một lần nữa, lần này để đếm những xác lính Việt Cộng bị tử thưởng trong trận đánh. (Để kỷ niệm vai trò của hai người trong cuộc tiến công, hai khẩu súng ngắn của Tư Cang và chiếc xe Renault màu xanh lá cây của Ẩn được trưng bày trong nhà bảo tàng tình báo quân sự tại Bộ Tham Mưu Quân Đội ở Hà Nội).

 Trong mùa xuân năm đó, Việt Cộng lại phát động một cuộc tiến công qui mô nhỏ bằng cách bắn pháo bừa bãi vào Saigon, đánh sập nhà cửa và giết hại nhiều thường dân. Ẩn gởi một khuyến cáo ngắn ra chiến khu. "Tôi bảo họ nên ngưng pháo vào Saigon vì không bao giờ trúng mục tiêu quân sự, mà chỉ tổ làm nhân dân lánh xa chúng tôi mà thôi."

 - Việc gì đã xảy ra sau đó? tôi hỏi Ẩn.

 - Cuộc pháo kích đã ngưng hẳn.

 Năm 1970, Robert Sam Anson, phóng viên Time, đồng nghiệp của Ẩn, bị lính Bắc Việt và Khmer Đỏ bắt ở Cam Bốt, nơi mà ít nhứt 25 nhà báo khác bị giết hoặc mất tích trước đó. Khi vợ của Anson cầu cứu với Ẩn, Ẩn liền bí mật điều đình để Anson được thả ra. Mười bảy năm sau đó Anson mới biết ra câu chuyện về sự giúp đỡ của Ẩn. Khi Anson gặp lại Ẩn vào năm 1987, anh hỏi Ẩn, "Tại sao anh cứu tôi khỏi bị giết nếu anh là kẻ thù của xứ tôi?". Ẩn trả lời, "Vâng, tôi là kẻ thù của xứ anh, nhưng anh là bạn tôi." Cho đến ngày nay, Anson vẫn còn đặt bức ảnh của Ẩn ở bàn làm việc của mình.

 Ẩn được ban cho một huy chương chiến công bội tinh lần cuối cùng cho vai trò của anh trong chiến dịch Hồ Chí Minh, được kết thúc với việc chiếm Saigon ngày 30 tháng Tư năm 1975 của những người Cộng Sản. Một việc làm cuối cùng của Ẩn trong chiến tranh là một cử chỉ cao đẹp nữa đối với bạn bè. Những giờ trước khi Saigon thất thủ, Ẩn sắp xếp cho việc đào thoát của vị chỉ huy cũ của mình là Trần Kim Tuyến, người điệp viên trưởng của miền Nam Việt Nam. Trong bức hình nổi tiếng chụp chiếc trực thăng cất cánh từ trên nóc của một tòa nhà mà mọi người tưởng lầm là Tòa Đại Sứ Mỹ (thực ra đó là nóc nhà ẩn trú của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương Mỹ cách đấy hai con đường), người cuối cùng leo lên chiếc thang lung lay lên trực thăng chính là Trần Kim Tuyến. Đứng ngoài tầm chụp của bức hình là Phạm Xuân Ẩn đang vẫy tay chào tạm biệt.

 Khi các cựu đồng nghiệp của Ẩn biết qua câu chuyện của anh - từ những lời đồn đãi được loan truyền trong những năm 80 - họ đồng loạt liên tưởng tới những sự kiện mà tự nó phát hiện những hoạt động của Ẩn lúc bấy giờ. Nick Turner, cựu trưởng phòng Reuters ở Saigon, xác định những nghi ngờ của ông về những lúc Ẩn vắng mặt trong văn phòng mà ông không được báo trước. H.D.S. Greenway, được người trong ngành gọi là David, bất thần hiểu ra rằng tại sao Ẩn, cựu đồng nghiệp của ông ở Time biết nhiều hơn ông về chiến dịch Lam Sơn 719, một nỗ lực đầy tai họa của quân lực miền Nam Việt Nam tấn công qua Lào năm 1971.

 "Tôi có mặt ở biên giới gần Khe Sanh, chứng kiến một toán quân trước đó bị thiệt hại nặng nề đang rút lui khỏi đất Lào," Greenway nói với tôi. "Tôi mô tả toán lính này là một phần của cánh quân chính đã tiến công ở Lào". "Không phải vậy," Ẩn cải chính không một chút do dự. "Cánh quân chính đã bị tiêu hủy sạch. Những lính mà anh thấy đó là những người còn sống sót của một đơn vị được lịnh đến cứu nguy cho đoàn quân tiến công, và đơn vị này cũng bị đánh bại nốt". Sau đó, nghĩ lại điều này, tôi thấy Ẩn dường như thông thạo hết mọi chuyện một cách khác thườngï. Đấy là một sự hiểu biết tường tận của một người có được những thông tin từ hai phía về trận đánh đã diễn ra.

 Nhà báo Nayan Chanda, lúc bấy giờ là thông tín viên của Reuters và tạp chí Far Eastern Economic Review, nhớ lại đã trông thấy Ẩn có mặt trước của Dinh Độc Lập trong ngày cuối của cuộc chiến khi chiếc xe tăng Cộng Sản số 843 xông vào đè bẹp chiếc cổng sắt. "Trên gương mặt Ẩn tôi thấy nởù một nụ cười khác lạ và kỳ quặc. Dường như trong anh có niềm tự mãn và thanh thản. Thật tôi không sao hiểu được thái độ của anh," Chanda nói. "Trước đó vợ và các con của anh đã được di tản bằng máy bay ra khỏi Việt Nam, vậy mà dường như anh không một chút bận tâm." Về sau Chanda mới nhận ra rằng lúc ấy Ẩn đang vui mừng chiến thắng của Cộng Sản, chiến thắng mà anh đã góp phần giành được trong 30 năm qua của anh.
 
Ngoài cái nhận định thoáng qua của Chanda, Ẩn giữ nguyên cái bình phong che đậy hoạt động gián điệp của mình sau năm 1975. "Đấy là thời gian đầy nguy hiểm của tôi," Ẩn nói. "Một người nào đó có thể bắn nát óc tôi một cách dễ dàng. Bởi vậy tôi không thể làm gì hơn là chờ đợi ai đó về từ chiến khu và nhận diện ra tôi."

Trong thời gian này, Ẩn và thân mẫu về sống tại Khách Sạn Continental Palace, lúc đầu ở trong phòng cũ của Robert Shaplen, sau đó chuyển qua trụ sở hai phòng của Time cũng ở khách sạn này. Ẩn bị cảnh sát gọi đến thẩm vấn nhiều lần cho đến khi được cơ quan tình báo can thiệp. Người ta bắt đầu nghi anh là "người của cách mạng" khi trông thấy anh đạp xe đến kho tiếp liệu quân sự và trở về với vài bao gạo và thịt buộc trên ghi đông xe đạp của anh. Người ta đoán anh là "người cách mạng 30 tháng Tư," nghĩa là người chạy sang hàng ngũ Cộng Sản sau khi Saigon sụp đổ.

 Ngay cả những sĩ quan cao cấp quân đội như Bùi Tín cũng không biết Ẩn là ai. Tín là Đại tá quân đội Bắc Việt, là nhân vật chấp nhận sự đầu hàng của chánh phủ miền Nam. Ông là phụ tá chủ bút báo Quân Đội Nhân Dân có mặt trên chiếc xe tăng tiến công vào Dinh Độc Lập ngày 30 Tháng Tư. Bất ngờ thấy mình là một sĩ quan cao cấp nhứt ở đây, Tín chấp nhận sự đầu hàng của chánh phủ miền Nam và ngồi xuống bàn giấy của Tổng Thống để đánh đi một tin điện về tờ báo của ông. Như hầu hết những nhà báo mới đến Saigon, việc làm kế tiếp của Tín là tìm gặp Phạm Xuân Ẩn. "Sáng ngày mồng Một Tháng 5, tôi đến gặp Ẩn tại văn phòng của anh ở Khách Sạn Continental Palace. Tôi không biết Ẩn là một điệp viên," Tín nói. "Anh cho tôi biết anh là phóng viên của hai tờ báo Time-Life. Anh giới thiệu tôi với tất cả thông tín viên ngoại quốc ở Saigon, và tôi giúp đỡ họ gởi những bài vở tin tức về các báo của họ. Ba tháng sau khi chiến tranh chấm dứt, tôi vẫn không biết Ẩn hoạt động gián điệp."

 Những dấu hiệu của một sự tranh chấp nội bộ Cộng Sản liên quan tới trường hợp của Ẩn-giữa cơ quan tình báo quân sự muốn gởi Ẩn sang Hoa Kỳ và những viên chức trong Bộ Chiùnh Trị - chỉ được tiết lộ cho Bùi Tín biết khi chánh phủ xúc tiến việc đưa vợ và con của Ẩn trở về Việt Nam. Ngược lại với dòng người tỵ nạn ào ạt di tản ra khỏi nước, gia đình Ẩn phải mất cả năm trời mới về tới Việt Nam bằng con đường vòng vo qua ngã Ba Lê, Mạc Tư Khoa và Hà Nội. Sự trung thành của Ẩn với Cộng Sản được chính thức công nhận lần đầu tiên vào tháng Chạp năm 1976 khi anh đáp máy bay ra Hà Nội với tư cách là một đại biểu của Quân Đội tại Đại Hội Đảng Lần Thứ Tư. Nhiều bạn bè thấy anh dạo quanh Hà Nội trong bộ quân phục mà anh khoác vào lần đầu tiên trong đời anh, và họ sững sờ trước sự biến đổi của một nhà báo ra một vị anh hùng với nhiều huy chương trên ngực.

 "Sau 1975, Saigon trở thành thành phố Hồ Chí Minh khắc nghiệt," Ẩn nói khi anh nhắc tới cái năm mà anh phụ trách văn phòng báo Time ở Saigon trước khi văn phòng này đóng cửa vào tháng 5, 1976. "Kiểm duyệt báo chí quá gắt gao, giống như những ngày xưa khi nhà báo Graham Green công tác ở Saigon. Tôi không gởi đi được nhiều tin tức bài vở vì tôi không biết cách luồn lách qua khỏi kiểm duyệt. Trong năm đó tôi không biết làm gì hơn là đi xem đá gà và đá cá thia thia."

 Trong khi hàng trăm ngàn người Việt Nam bị bắt vào các nhà tù và trại lao động, Ẩn cũng bị bắt buộc đi "cải tạo". Tháng 8, 1978 anh được gởi ra Hà Nội dự một khóa học tập trong 10 tháng tại Viện Chính Trị thuộc Bộ Quốc Phòng, một trại huấn luyện tư tưởng chủ nghĩa Mắc-Xít và Mao-ít giành cho cán bộ trung và cao cấp. "Tôi đã sống quá lâu trong lòng địch," anh nói. "Bởi vậy họ gởi tôi đi để cải tạo tư tưởng của tôi."

 Luôn luôn là một học viên tồi, Ẩn kết thúc khóa học với điểm rất thấp. "Họ không thích những chuyện đùa tôi kể," ý anh nói đến những cán bộ Bắc Việt khắc khổ cố gắng dạy anh nói một thứ ngôn ngữ Việt Nam "mới" đầy những danh từ chánh trị vay mượn của Trung Hoa. Ẩn chịu đựng một mùa đông lạnh buốt xương ở Hà Nội, ngủ trên chiếc giường gỗ trên có chiếc nệm vải mỏng. "Tôi mặc một chiếc áo bông khoác ngoài kiểu Trung Hoa trông tôi giống như một xác ướp biết đi," anh nói. "Tôi yêu cầu được cấp một áo khoác kiểu người Nga mặc. Mặc dù vậy, tôi vẫn bị lạnh nên tôi yêu cầu họ một lần nữa cấp cho tôi một chiếc "áo khoác 111 độ" - nghĩa là cấp cho tôi ba cô gái, hai cô nằm hai bên cạnh và một cô nằm trên người tôi."

 "Họ không ưa tôi chút nào hết," Ẩn nói đến những cán bộ cải tạo chính trị. "Nhưng tôi không phạm phải lỗi lầm to lớn nào đến nỗi phải bị đem ra bắn."

 
Năm 1990, Đại Tá Ẩn được thăng cấp thiếu tướng. Lúc này, Việt Nam bắt đầu chính sách đổi mới, mở cửa giao thiệp với phương Tây. Với sự thăng cấp này, người ta phân vân không hiểu thái độ của Cộng Sản đối với Ẩn ra sao, hoặc là công nhận những thành tích của Ẩn, hoặc cảm thấy xấu hổ cho đời sống thiếu thốn của Ẩn, hoặc là tìm cách khéo léo kiểm soát đời sống của Ẩn một cách chặt chẽ hơn. Về phần Ẩn, anh luôn luôn xem sự thăng cấp là một trò đùa. Vì các nhà báo phương Tây bắt đầu trở lại Việt Nam và tỏ ý muốn gặp "Tướng Givral," nên muốn tránh mọi lúng túng chánh phủ có quyết định trên để cho thích hợp với cái chức "Tướng Givral" của anh.

 Năm 1997, Chánh phủ Cộng Sản Việt Nam từ chối không cho phép Ẩn viếng thăm Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở Nữu Ước mà anh được mời với tư cách là một khách đặc biệt. Và mãi cho đến tháng Ba, năm 2002, viên tướng 74 tuổi với chứng bịnh khí thũng này mới được phép cho về hưu. "Họ muốn kiểm soát tôi," anh nói. "Bởi vậy họ giữ tôi trong quân đội quá lâu. Tôi hay phát biểu lung tung bừa bãi và họ muốn bịt miệng tôi lại." Đấy có thể là một lối giải thích của Ẩn, nhưng luôn luôn với Ẩn, có thể có một yếu tố khác nữa không ai biết. Những gì mà chúng ta biết, trong ít nhứt 27 năm sau chiến tranh, là Ẩn vẫn còn là một thành viên tích cực của guồng máy tình báo quân sự của Cộng Sản Việt Nam.

 Vài cựu đồng nghiệp của Ẩn đã cáo buộc anh là một "phóng viên có thế lực" đã ứng xử các nguồn tin và cài đăng các bài viết trên báo Time. "Tôi nghĩ lời cáo buộc này là một chuyện đùa," David Greenway, cựu phóng viên Time, nói. Greenway rời Time năm 1973 và sau cùng trở thành một chủ bút trang xã luận của báo Boston Globe. Greenway tiếp: "Những chủ bút của Time có bao giờ lắng nghe ý kiến của phóng viên chúng tôi đâu. Không ai trong chúng tôi có thể thao tác các nguồn tin cả. Vì vậy, Ẩn đâu có được cái may mắn gì tốt hơn những đồng nghiệp khác."

 Richard Pyle, cựu trưởng chi nhánh Associated Press ở Saigon nói rằng Ẩn không tài nào cài đặt những bài viết của anh đăng trên báo Time được, trái lại "Ẩn đã nhiều lần cứu vãn uy tín của báo vì đăng nhiều tin tức không đúng với sự thật." Ẩn có một lối hành sử khéo léo. Bằng cách không tiết lộ làm thế nào anh có được các nguồn tin, Ẩn sẽ cho bạn biết bạn có đi đúng hướng không.

 Theo cựu thông tín viên Zalin Grant của Time, Ẩn cũng còn bị tố giác là "một trường hợp một người Cộng Sản đầu tiên có tên trong danh sách thông tín viên trên trang đầu của một tờ báo lớn Hoa Kỳ." Murray Gart, thông tín viên trưởng của Time trong thời gian chiến tranh, sau khi biết tin Ẩn là một điệp viên, nói rằng "thằng chó đẻ ấy, tôi muốn giết nó."

 Một phóng viên khác, Peter Arnett, cũng phê phán hành động của Ẩn, nhưng với những lý do khác. Ẩn thuê căn nhà của cha mẹ vợ người Việt Nam của Arnett, và hai nhà báo này thường gặp nhau ở quán Givral để trao đổi tin tức. "Tôi không biết phải xử lý ra sao đối với Ẩn," Arnett nói. "Tôi hiểu anh là một người Việt Nam yêu nước, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị phản bội về phương diện nghề nghiệp. Suốt trong thời gian chiến tranh có những tố giác là hàng ngũ của chúng tôi đã bị Cộng Sản xâm nhập. Hành dộng của Ẩn có thể dẫn đến sự kiện một ngày nào đó chúng tôi sẽ bị ám sát như chơi. Trong hơn một năm trời, tôi cảm thấy bị xúc phạm, nhưng sau đó tôi lại nghĩ ra rằng chẳng qua đó là công việc riêng của anh."

 Ngoại trừ vài trường hợp chỉ trích hành động của Ẩn nêu ở trên - và ngay cả việc Arnett chấm dứt cuộc đàm thoại với tôi bằng lời khen Ẩn là một "người bạo gan" - những đồng nghiệp của Ẩn đều tỏ ra một lòng ủng hộ Ẩn. "Tôi có căm giận Ẩn không sau khi tôi biết qua những hoạt động gián điệp của anh?" Frank McCulloch nói. McCulloch từng là giám đốc các văn phòng của Time ở Á Châu khi ông thu dụng Ẩn để làm việc ở Saigon với số lương 75 Mỹ kim một tuần. "Hẳn nhiên là không. Tôi nghĩ Việt Nam là quê hương của anh. Nếu trường hợp đổi ngược lại, tôi cũng sẽ phải làm như anh mà thôi."

 McCulloch hiện nay đã nghỉ hưu sau một một thời gian phục vụ xuất sắc với tư cách chủ bút quản nhiệm của báo Los Angeles Times, báo Sacramento Bee và nhiều báo khác, tiếp tục đề cao Ẩn: "Ẩn là đồng nghiệp của tôi và là một phóng viên sáng giá. Ẩn có một sự hiểu biết tinh tường về hiện tình chính trị Việt Nam, và đáng chú ý là những tin tức tài liệu của anh chính xác một cách lạ thường". McCulloch bật cười: "Dĩ nhiên là xác thực rồi khi mình biết các nguồn tin ấy từ đâu ra!"

 McCulloch nhắc tới Ẩn với sự quí mến và kính trọng cao độ, và ông nói thật là "niềm vui to lớn" của ông khi năm 1990 ông tổ chức một cuộc gây quỹ thu được 32 ngàn Mỹ kim để tài trợ cho việc gởi người con trai trưởng của Ẩn là Phạm Xuân Hoàng Ẩn, thường được mọi người gọi là Ẩn Non, du học ngành báo chí tại Đại học đường North Carolina. Hầu hết những người đóng góp vào quỹ này là những cựu phóng viên chiến trường Việt Nam. (Hoàng Ẩn tốt nghiệp trường luật tại Đại học Duke năm 2002 và hiện phục vụ tại bộ Ngoại Giao Việt Nam.)

 Mai Chí Thọ, người xếp cũ của Ẩn, xuất hiện sau chiến tranh là một trong những nhân vật quyền uy nhứt với chức bí thư Xứ Ủy Nam Bộ cầm quyền lãnh đạo miền Nam Việt Nam, đồng thời Thọ cũng giữ chức Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ. Trong ngôi biệt thự của Thọ ở trung tâm Saigon - ngày xưa là Tòa Đại Sứ Thụy Sĩ - tôi được đưa vào một phòng tiếp khách nguy nga với bàn ghế bằng gỗ quí và những hình tượng đá khắc lấy từ các địa điểm cách mạng nổi tiếng. Dựa tường phía cuối phòng kê một bàn thờ chưng đầy hoa quả và bốn bức hình được tô điểm lại của đôi thân sinh và hai người anh nổi tiếng của Thọ: Tướng hai sao Đinh Đức Thiện, người có công góp phần xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh, và Lê Đức Thọ, người đã đánh lừa Henry Kissinger tại Hòa Đàm Ba Lê và nhận được giải Hòa Bình Nobel.

 Mai Chí Thọ đang cầm trong tay một bó nhang tỏa khói cúi đầu vái trước bức hình của thân phụ. Hôm nay là ngày giỗ của thân phụ ông, theo thông lệ không phải là ngày tiếp khách lạ, nhưng Thọ biết thời gian tôi ở đây rất ngắn. Thọ cắm nhang vào lư hương và bước ra bắt tay tôi. Vận chiếc quần xám và sơ-mi tím, Thọ cao lớn, đầu đã bạc trắng nhưng có dáng oai nghiêm và có cái nhìn chầm chập vào người đối diện. Với thân hình cao hơn người Việt Nam bình thường, Thọ chắc đã phải cho đào đường hầm thật sâu rộng trong thời gian 10 năm sống dưới địa đạo Củ Chi.

 Được đào tạo tôi luyện trong những nhà tù danh tiếng nhứt ở Việt Nam, kể cả nhà lao sau này được biết tới là Hà Nội Hilton, nơi John McCain bị giam trong 5 năm, và nhà tù Côn Sơn, hay là Đảo Ác Quỷ, nơi mà Thọ bảo hai phần ba những đồng chí của ông đã chết trước khi ông được phóng thích năm 1945. Tướng Thọ là một kẻ thù dày dặn chiến trường và hôm nay là một người chủ nhà dễ mến mời người khách Mỹ của mình dùng trà và trái cây. "Thật là một việc làm khó khăn, nhưng chúng tôi quyết định phải thi hành," Thọ nói về nỗ lực của ông gây được số tiền cho việc gởi Ẩn sang Hoa Kỳ năm 1957. Lúc bấy giờ Đảng rất nghèo, nhưng chúng tôi nghĩ việc làm này có nhiều lợi ích. Ẩn là người đầu tiên chúng tôi gởi anh sang Mỹ để học biết cái văn hóa của những người thay thế Pháp làm kẻ thù của chúng tôi.

 "Ẩn là một người toàn hảo cho công tác này," ông nói, "Đó là một việc làm thành công lớn của chúng tôi."

 Tôi hỏi Thọ về một dịp tốt khác mà Việt Nam không nắm lấy được - đó là khả năng gởi Ẩn sang Mỹ một lần nữa vào năm 1975. Ông nhìn thẳng vào mặt tôi qua đôi kính có gọng bằng thép. "Tôi không hiểu tại sao câu chuyện này bị tiết lộ," ông nói, lộ vẻ hối tiếc việc tôi hiểu biết vấn đề này để thốt ra câu hỏi ấy. "Ẩn sẽ đạt nhiều thành tích to lớn nếu chúng tôi gởi anh sang Hoa Kỳ lần này." Đây là một một hàm ý duy nhứt của Thọ trong câu chuyện này, trước khi ông chuyển sang nói về đường lối của Đảng, cho rằng Ẩn đã chịu đựng quá đủ trong nhiều năm trong lòng địch nên anh được phép an hưởng nghĩ hưu.

 Tôi nêu lên một câu hỏi kế tiếp sau đây mà tôi biết chắc sẽ không được trả lời: "Ẩn thi hành nhiệm vụ gì do ông giao phó?"

 Bộ Trưởng Thọ mỉm cười trao cho tôi một tách trà nữa. "Ẩn có được những nguồn tin tốt nhứt và được phép tiếp cận các thông tin mật," ông nói. "Hơn ai hết ở Saigon lúc bấy giờ, Ẩn rất nhạy bén biết rõ mọi chuyện. Nếu ông muốn biết việc gì đang xảy ra thì Ẩn là người ông tìm đến. Sau chiến tranh, chúng tôi phong tướng cho Ẩn và danh hiệu Anh Hùng Quân Đội Nhân Dân. Không cần phải nói thêm những chi tiết gì nữa, chỉ điều ấy thôi cũng đủ nói lên tầm quan trọng của những gì Ẩn đã làm cho quê hương của anh."

  Tôi giật chuông ngoài cổng để gặp Ẩn lần chót. Đêm qua, một trận bão thổi qua từ phương đông đem theo một cơn mưa lớn cách khoảng suốt buổi sáng. Với trận mưa như vậy, phòng của Ẩn đượm mùi của các con chó ẩm ướt và phân chim, và hai khuỷu chân của tôi đầy những chấm đỏ và bắt đầu sưng lên vì bị bọï chét đốt. Khoảng gần trưa, không khí trở nên ngột ngạt vì mùi chiên xào rau cải và tiêu ớt tỏa bay đi ra ngoài trong khi Ẩn tiếp tục tiếp chuyện bỏ cả bữa cơm trưa và kéo luôn đến buổi chiều. May quá, vì đã có kinh nghiệm từ những lần gặp trước nên sáng nay tôi ăn sáng thật nhiều trước khi đến gặp Ẩn.

 Những mảng nước lớn đọng lại trong vườn bốc lên làn sương mỏng. Tôi lo ngại cho những quyển sách của Ẩn đã ngả màu vàng và chắc đang bị ố vì mốc meo và từ từ sẽ không còn đọc được nữa. Thỉnh thoảng Ẩn ngừng nói, đứng dậy đi lấy một quyển sách trong chồng sách đó. Anh tìm một đoạn trong sách hoặc dí vào tay tôi một bản văn để xác định điểm phân tích của anh. Nhiều sách của Ẩn được tác giả ký tặng hoặc do người mang đến biếu tặng anh ký. Anh có hai bản của quyển sách "A Bright Shining Lie" (tạm dịch: "Một Lời Dối Sáng Bóng") của Neil Sheehan, một bản có lời viết tặng của chính tác giả, bản kia do Morley Safer, phóng viên truyền hình CBS, viết tặng.

 Giữa buổi chiều khi cơn mưa ráo tạnh, Ẩn sột soạt bước qua nhà bếp và ra ngoài sau nhà, mở ngăn kéo bàn viết lấy ra cho tôi xem vài bức ảnh cũ. Anh vội vàng ném sang một bên vài bức hình mới hơn, chụp anh trong bộ quân phục có gán cấp bậc tướng của anh đứng cạnh những ủy viên Bộ Chính Trị. "Họ mong muốn thấy hình dung của tôi," Ẩn nói. "Họ sống trong rừng trong thời gian chiến tranh và không bao giờ biết mặt tôi."

 Tôi lấy ra từ trong ngăn kéo một chiếc huy chương còn dính dải băng đỏ. "Vật gì đây?" Tôi hỏi. "Đấy là những vật họ ban cho tôi," anh nói. "Tôi không hiểu chúng nói lên điều gì".

   "Tôi thi hành công tác không ai biết đến. Tôi chết cũng không ai biết đến," anh vừa nói vừa đóng ngăn kéo lại.

 Đi trở lại vào nhà, chúng tôi dừng lại trước những kệ chứa sách của Ẩn. "Tôi sẽ nhớ những quyển sách kia khi tôi không còn có mặt nơi đây," anh nói. "Tôi là người duy nhứt trân quí giữ gìn những tài liệu cũ này mà thôi."

 Tôi nhận xét với Ẩn rằng những sách sưu tập của anh viết bằng Pháp và Anh văn nhưng rất ít sách tiếng Việt. "Ở đây người ta không có tự do viết lách," anh nói. "Đấy cũng là một trong những lý do tôi không viết tiểu sử của tôi. Tôi sẽ bị phiền phức nếu tôi nói về đời sống tôi hoặc nói những gì tôi biết."

 Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng những quyển sách mà Ẩn ấn vào tay tôi cầm là những cuốn chứa đầy tín hiệu mật mã, những phương thức nói về những kinh nghiệm mà hiện giờ còn rất nguy hiểm khi trực tiếp đối đầu với chúng. Trong mỗi buổi gặp gỡ như thế này, dường như Ẩn đã chọn một bản văn hay một đoạn văn nào đó để quyện cuộc trò chuyện của chúng tôi vào đó. Một hôm là quyển sách của Dickens trong đó có câu : "Có những lúc tuyệt vời, có những lúc tệ hại tột cùng." Hôm khác là bài học trong những bài "Ngụ Ngôn" của La Fontaine. Ẩn thích thú với những câu chuyện trong sách này nói về những con thú hành động như người và người hành động như thú.

 Trong buổi gặp gỡ sau cùng, Ẩn đưa cho tôi quyển sách của Gerard Tongas, một nhà giáo dục người Pháp từng đến Hà Nội giúp đỡ Cộng Sản Bắc Việt thiết lập một trường trung học sau khi Pháp bị đánh bại năm 1954. Theo lời Ẩn, Tongas, cũng giống như Edward Lansdale, là chủ nhân một con chó tinh khôn và con chó này có lần đã cứu Tongas khỏi chết vì thuốc độc do người khác ám hại.

 Tôi nhìn thấy những dòng chữ in trên trang giấy trắng ở đầu cuốn sách của Tongas do giám đốc Quỹ Á Châu, tổ chức đã tài trợ những chuyến du hành của Ẩn tại Hoa Kỳ, tặng cho Ẩn. Lời tựa sau đây dường như tự nó nói lên rất nhiều ý nghĩa: "J'ai vécu dans l'Enfer Communiste au North Viet Nam et j'ai choisi la Liberté" (Tôi Đã Sống Trong Địa Ngục Cộng Sản ở miền Bắc Việt Nam Và Tôi Đã Chọn Tự Do).

 "Đây là một cuốn sách rất quan trọng, một cuốn sách trung thực," Ẩn nói.Anh nên đọc nó trước khi anh viết điều gì.

  Wikipedia tiếng Việt" đưa lên net, địa chỉ.