THANH TÂM TUYỀN
(1936-2006)
Âm Bản (1)
Mémoire est le rassemblement de la
pensée fidèle.
(M. Heidegger)
J’ai dit
facile et ce qui est facile
c’est la fidélité
(P. Eluard)
ÓNG ÁNH HƯ NGỤY
Mỗi phen cầm bút viết
về văn chương — làm một thứ văn chương
trên văn chương — tôi hiểu rõ mình đang sống thời buổi khủng hoảng. Văn
chương
nhất thiết là hồn nhiên, ngây thơ hay không, tôi chẳng rõ. Nhưng đối
với tôi
khi nó cần trông thấy nó qua phản ánh của nó, không thể phủ nhận là nó
đang
truỵ lạc, sa đoạ. Nhất là buồn bã.
Mỗi phen, tôi đều lập
lại với tôi khẩu hiệu: Enfin, j’écris.
Enfin, đó là tín hiệu của người bạn thân phát ra giúp tôi nhận biết anh
ta bắt
đầu say. Trong cuộc rượu của chúng tôi đã tới một thời điểm gay cấn,
hãy nhận
Enfin, báo động cho bạn bè, những kẻ ngồi chung cuộc, rằng: bất ổn, bất
ổn,
chán quá, chán quá, tôi quyết định đẩy cơn say đến cùng, đánh đắm mình
vào mông
lung, mù mờ, hỗn độn. Như Hamlet kêu: “The time is out of joint” (Thời
gian đã
ly tán). Như Hamlet, chẳng còn hiểu đời sống, hươi gươm đâm chết nàng
Ophélia.
Cơn khùng điên óng ánh những mảnh minh trí vỡ nát, những mảnh sao băng
miệt
mài, không một giây đốn ngộ, từ khước đốn ngộ — chẳng thể ôm ấp đời
sống mênh
mông vô hạn. Đó định mệnh của văn chương trên văn chương, nỗ lực soi
rọi mù mờ
bằng những ánh mù mờ, nỗ lực kết tập thời ly tán bằng những đun đẩy ly
tán.
Enfin, j’écris.
Enfin, je crie.
Thảm thiết chưa, cũng
lố bịch chưa, văn chương kêu la tắt
tiếng trên văn chương. Văn chương soi bóng làm bộ làm tịch trước văn
chương.
Mỗi phen tôi đều nổi da gà, nhờm tởm, thấy mình đang đóng vai chủ chứa
trong
tấn kịch Bao Lơn (Le Balcon) của Genet. Trong nhà chứa của mụ này, mỗi
phòng
được bài trí một kiểu dành riêng cho một vai nhất định mà khách chuộng
đóng —
tu sĩ, tướng lãnh, quan toà, cách mạng — với đầy đủ y trang và các thứ
phụ tùng
cần thiết để đóng trò — mọi trò điển hình của dục tính thác loạn — nữ
nhân là
phụ tùng thiết yếu, nhưng phòng nào cũng có gắn gương để cho các đương
sự có
thể nhìn ngắm mà sửa bộ.
Ngôi nhà chứa ở trong
một thành phố dấy loạn. Và trên bao
lơn của nhà chứa, khách làng chơi và gái giang hồ dẹp loạn.
LE POÈTE MAUDIT
“Tôi viết chỉ bởi lẽ
tôi không thể nào làm khác.” (Je
n’écris que parce que je ne puis faire autrement) và “Đáng nguyền rủa
thay con
tim không biết đường tự chế.” (Maudit soit le coeur qui ne sait se
contenir —
"Penthésilée"). Đó là những lời than thở của Kleist, đối cực của
Goethe.
Tôi tự hỏi còn không
cái tông giống thuần khiết kia? Gương
mặt ngửng cao dưới bầu trời giông bão, trán hứng nhận sấm sét và cất
giọng gào
ca một điệp khúc hân hoan thịnh nộ của con người, ganh đua cùng trời
đất quỷ
thần. Quả nhiên là cái tông giống đáng nguyền rủa, dập vùi. Đáng nguyền
rủa cái
hào quang của tuyệt vọng, đáng dập vùi cơn đam mê khốn cùng của một
tông giống.
Keats hát: “Hạnh phúc
thay ở trần gian này lại còn có nấm mồ
(Je suis heureux qu’il y ait ici bas une chose telle que la tombe).
Nhưng còn không, còn
không những vầng trán hiền lộng mênh
mang của một cõi ngoài, những cửa miệng há mở cho nhảy thoát con tim đỏ
ối,
những đôi mắt căng banh dập dồn ánh lửa uy linh một đời khác? Còn không
một tấm
lòng trinh bạch? Còn không chút thơ ngây dại dột, chẳng làm tuồng?
Nhận chịu bị nguyền
rủa (không phải được bị nguyền rủa) -
chẳng hiểu sao, bởi không thể khác — như con chim thất lạc giữa mùa
đông băng
giá, cất tiếng kêu thảm thiết gọi nắng, gọi hoa và đợi chết? Chim bị
nguyền
rủa, chẳng nguyền rủa. Còn không? Còn không?
Dường như sau buổi
tân hôn bi tráng của Kleist, tắm đượm
niềm hoan lạc phi thường — Tử thần lẫm liệt uy nghi đã bị Kleist nặn
thành
tượng trưng bày — cái tông giống kia không thể tồn tại bởi không thể
vượt hơn.
Hãy nghe Kleist viết thư từ biệt cô em gái:
“Que le ciel
t’accorde une mort qui ressemble, ne fûtce qu’à
moitié, à la mienne en joie et en sénérité; c’est le voeu le plus
sincère et le
plus tendre que je puisse former pour toi.”
(Cầu trời ban cho em
một cái chết hân hoan và thanh tịnh
giống như cái chết của anh, bằng phân nửa thôi cũng được; đó là lời cầu
chúc
chân thành nhất, âu yếm nhất mà anh dành cho em.)
Chàng thơ ấy bình
thản nhìn lần cuối mớ bản thảo của chàng,
một quyển tiểu thuyết đã hoàn tất, hai vở kịch - tất cả giông tố mê mải
của hồn
chàng đó — nhưng bấy giờ lặng thinh mọi tham vọng — không ai màng những
của nợ
ấy và chính chàng cũng chẳng còn thiết (... J’ai cru savoir. Je savais
toujours. Je sais
peut-être mais personne ne veut ce secret et je n’en veux pas moi-même.
Tôi
từng tưởng biết. Tôi hằng vẫn biết. Bây giờ có lẽ tôi biết nhưng không
một ai
màng đến điều thầm kín ấy và ngay chính tôi, tôi cũng chẳng thiết —
Camus — Trở
Lại Tipasa). Và chàng thiêu huỷ đống giấy lộn kia (như Gogol, Kafka).
Chàng
viết gửi nhà chức trách bản tường thuật diễn tiến cuộc tự sát, mở đầu
bằng câu:
“Chúng tôi nằm chết trên con lộ...”
Kleist với một người
đàn bà xấu xí bệnh hoạn và cũng cô đơn
như chàng, thoả thuận chết cùng chàng, hớn hở như đôi uyên ương cùng rủ
nhau
đến Wannsee. Họ ngồi uống cà phê giữa trời. Người ta còn nghe họ cười
ròn tan,
đi khuất vào đồng cỏ. Đúng giờ đã ghi, hai phát súng nổ. Kleist đã kề
súng bắn
vào trái tim của người đàn bà đồng hội đồng thuyền rồi ngậm họng súng
trong
miệng mình nổ phát thứ nhì. Tay chàng
không hề
run rẩy.
“Tôi đã làm tất cả
những gì thuộc quyền năng của một
người... Tôi đã thử thách đến điều bất khả. Tôi đã mang đặt thời vận
cuối cùng
của đời tôi trong một tiếng bạc. Mấy con xúc xắc định mệnh đã thẩy lăn,
tôi cố
tìm hiểu... Tôi thua. (J’ai fait tout ce qui est dans le pouvoir d’un
homme...
J’ai tenté l’impossible. J’ai mis ma dernière chance dans un coup de
dés. Les
dés fatals ont roulé, j’essaie de comprendre... J’ai perdu!) —
“Penthésilée”.
Tôi thua! Tôi thua!
Và “tôi nghĩ tôi có quyền chết”.
Sau Kleist, không còn
poète maudit. Mọi người đều bị nguyền
rủa, đều được nguyền rủa, đều cùng nguyền rủa, đều tự nguyền rủa. Khốn
khổ,
thảm hại thay tuồng nguyền rủa. Tuồng văn chương truỵ lạc đấy thôi. Coi
kìa
Dosoievski đeo thánh giá, đọc diễn văn dưới chân tượng Pouchkine. Henri
Miller
khoác áo mô phạm đứng trên bục giảng đường thuyết pháp. Sartre từ khước
Nobel,
xuống đường tranh đấu, tự đoạ mình trong tự do... Nhiều vô xiết kể. Tất
cả
những người ấy, hết thảy những người — ít nhiều chăn nuôi ảo tưởng của
văn
chương nghĩa lý đều đã mang giấc mộng tột cùng / khốn cùng: trở thành
maudit,
đều từng đóng các tuồng tích và đều trở thành hề. Không chừa ai.
Đã tuyệt giống poète
maudit. Còn chăng là những chàng thơ bị
ám toán, “triệu triệu chúa Kytô có đôi mắt u sầu và hiền hậu” (O,
million de
Christ aux yeux sombres et doux) (Rimbaud).
1973
GIẢI ĐỀ:
CHỮ TRINH CÒN MỘT CHÚT NÀY
Bạn ta — “Xuống núi”
không tìm gặp bạn, nghĩ cũng tệ. Thật
thì chẳng có lý do nào ngăn trở hết. Mỗi lần đáp xuống thành phố, vẫn
chỉ ngần
ấy thói quen: Ngồi quán, gặp vài khuôn mặt thân thuộc và ngày dứt trong
khuya
ngất ngưởng. Thế thôi, không gì khác. Ta chẳng thích mất những thói
quen.
Xuống, nghe bạn ta
lại phải dấn thân vào trường “gió tanh
mưa máu”, còn mắc nạn nữa. Hơi buồn. Biết làm sao được, phải không?
Đúng là “ma
đưa lối quỷ đưa đường, lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.” Cái nhà
ông
Nguyễn Du, lâu lâu sực nhớ ông, bắt giật nẩy mình. Ngày xửa, ngày xưa,
ta đã cứ
thắc mắc hoài về mấy câu nói của nàng Kiều khi tái ngộ chàng Kim... Chữ
trinh
còn một chút này, chẳng cầm cho vững lại dày cho tan. Giờ mới thấm
thía, tội
cho nàng Kiều biết mấy. Ông Nguyễn Du là chúa độc, hơn cả anh chàng Tây
Độc
(hỗn danh của bạn ta đó). Nàng Kiều trầm mình xuống sông Tiền Đường,
tưởng đã
thoát nợ kiếp này, ông lôi cổ lên đẩy về nhà, bắt phải mở mắt mà trông:
Này
chồng, này mẹ, này cha; này là em ruột, này là em dâu... Cô ngồi xuống
đó đi,
trước mắt đông đủ mọi người — hết thảy mọi người, yên ổn và êm ấm nhưng
không
thể quên cô — và trước mắt tình lang mười lăm năm cũ cô ngồi đó trong
kiếp đoạn
trường nào đâu đã dứt. Cô đã trả món nợ hồng nhan cho ông trời già cay
nghiệt,
nhưng chưa xong. Còn cái món nợ tình với chàng Kim nữa, cô ơi. Ôi, cái
món nợ
tình, món thế tục cầm chân ta lại trong vòng khiến ta bắt buộc ngồi đó
với bẽ
bàng. Cái “bước trần ai” ta cứ động lòng. Nhưng mà động lòng đến chừng
nào, hỡi
bạn ta. Còn một chút này.... thật là thảm, bạn ta nghĩ mà coi. Chút này
là chút
nào? Chàng Kim chỉ có thể hiểu đến chỗ: Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là
tình.
Thiệt kỳ cục.
...
Giả như gặp nhau, ta
cũng đến lặng ngắt. Hoặc giả ta khua
inh sự lặng ngắt. Thế thôi. Mà ta rõ đã lăn thân vào chốn ấy, bạn không
muốn
nghe sự lặng ngắt. Ta cũng đang khua gióng sự lặng ngắt đây. Bạn ta
nghe chăng?
1971
--------
Bài này đăng lần đầu trên Thời Tập (số
4, 1974, tr. 11-15),
Sài Gòn.
Nguồn
(1) Một mục thường xuyên do TTT phụ
trách trên Thời Tập.
Viên Linh hình
như còn giữ được cả bộ [?]
NQT