*

 





Sài Gòn Ngày Nào Của Gấu

Mémoirs

*

Nghệ sĩ Tây dưới thời bị trị.

Số này còn 1 bài về khẩu AK-47, dịch từ tờ Ðiểm Sách Luân Ðôn, rất thú vị. Tuy nhiên, bài viết không nói tới sự khủng khiếp của tiếng súng AK-47. Người dân Sài Gòn những ngày Mậu Thân đã từng được hưởng kinh nghiệm này, và GNV từng lèm bèm về nó, và tin rằng, thứ âm thanh quay vòng tròn, surrounded, là được mặc khải từ tiếng AK. Và cùng với nó là vấn nạn thật căng:
Bạn phải trải qua cái “khủng” rồi mới hiểu được sự chuyển hóa, từ “khủng” qua “tuyệt” được.
Vì lý do này mà đám bỏ chạy bợ đít VC mới không làm sao phân biệt được, giữa “pháo kích” và “oanh kích”.  Chúng tra từ điển, rồi phán, như nhau!
Một tên Tây mũi tẹt dịch “tình yêu như trái phá” ra tiếng Tẩy là “cú sét đánh”, ra tiếng Anh là “yêu từ cái nhìn đầu tiên”!
Và trên tất cả, chúng chẳng biết cái hay của, chỉ một bản nhạc sến, hay chỉ một lời nhạc, thí dụ như câu này, trong bản Kẻ ở miền xa:
Ngoài kia súng nổ đốt lửa đêm đen tầm đạn thay tiếng em!
GNV có một viết thật là tuyệt [nhưng vẫn chưa viết ra được !], về kinh nghiệm khủng khiếp này, lần đầu tiên nghe bản nhạc After the Sunrise, của Yanni.
Như thể, bạn nghe bản nhạc, và cùng lúc sống lại tất cả cuộc chiến, cứ mỗi nỗi đau của bạn, là được đền bù bằng 1 nốt nhạc!
Một bài viết thần sầu [chưa viết nhe], liên quan tới cô bạn, và tới cái mail của một em, một nữ thi sĩ ở trong nước:

Anh có khỏe không. Có gì vui không? Anh vẫn thích nghe Kenny G. và Yanni?

Liên quan tới vấn đề này, còn là câu phán hiển hách của Gấu Cà Chớn, văn chương Miền Nam cuối cùng chỉ đọng lại trong mấy bản nhạc sến!
Ðể hiểu câu này, bạn phải đã có lần đi tù VC, và hành lý mang theo chỉ là mấy bản nhạc sến trong ký ức, và mỗi bản nhạc, nó giống như 1 cái lỗ đen, nén cả một cuộc đời của bạn, và có dịp, là nó nổ bùng ra, như 1 cú nổ của mặt trời!

Simone Weil, to whose writings I am profoundly indebted, says: "Distance is the soul of beauty." Yet sometimes keeping distance is nearly impossible. I am A Child of Europe, as the title of one of the my poems admits, but that is a bitter, sarcastic admission. I am also the author of an autobiographical book which in the French translation bears the title Une autre Europe. Undoubtedly, there exist two Europes and it happens that we, inhabitants of the second one, were destined to descend into "the heart of darkness of the Twentieth Century." I wouldn't know how to speak about poetry in general. I must speak of poetry in its encounter with peculiar circumstances of time and place. Today, from a perspective, we are able to distinguish outlines of the events which by their death-bearing range surpassed all natural disasters known to us, but poetry, mine and my contemporaries', whether of inherited or avant-garde style, was not prepared to cope with those catastrophes. Like blind men we groped our way and were exposed to all the temptations the mind deluded itself with in our time.

Czeslaw Milosz: Nobel lecture [Diễn từ Nobel văn chương]

Cái gọi là "Distance is the soul of beauty", “Khoảng cách là linh hồn của cái đẹp”, chính là cái khoảng cách giữa 1 bản nhạc sến bạn nghe trước 1975, và cũng nó, khi bạn nghe ở trong tù VC!
Khi TTT đọc truyện đầu tay của Gấu, Những con dã tràng, gửi thẳng xuống tòa soạn Sáng Tạo, ông về nói với bà cụ, thằng Trụ nó sẽ đi xa hơn DNM. Ông không hề nói Gấu viết hay hơn DNM. Điều gì làm ông phán như thế. Hẳn là ông tin vào cái sự biết tí ti ngoại ngữ, cái sự học xong Trung Học…

Nói rõ hơn, với ông, không có thứ nhà văn tự phát hoài hoài, cái mầm văn học ở trong bạn phải được nuôi dưỡng bằng kinh nghiệm sống, bằng sức đọc, sức xâm nhập vào thời của bạn. Đây là cái ý của Milosz, trong đoạn đã dẫn trên.

Truyện ngắn không được đăng, vì Sáng Tạo chết liền sau đó. Sau Gấu thấy tên của Gấu, khi đó ký Sơ Dạ Hương, ở trong mục hộp thư của tờ Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong, và "băng" của ông. Không đăng. Tuy nhiên, Gấu chẳng hề để ý đến nữa. vì còn lo học. Chỉ mãi đến khi ăn mìn VC, nằm nhà thương Grall, đọc 1 bài thơ của CTC đăng trên báo Nghệ Thuật, thì Gấu mới có lại cái hứng viết. Và đó là cái truyện ngắn Những ngày ở Sài Gòn.
Khi viết Những con dã tràng, truyện ngắn hay nhất của Gấu, đúng theo nghĩa truyện ngắn, tuy được TTT khen, nhưng bản thân, Gấu biết, đây không phải là dòng văn chương của mình! Cái thứ nhân vật hục hặc với đời sống, không phải týp của Gấu. Chỉ đến khi nhận ra điều này, thì Gấu mới hiểu “sẽ đi xa hơn DNM”, có nghĩa là gì.
Chỉ đến khi viết được Những ngày ở Sài Gòn, thì Gấu mới tin được, mình sẽ trở thành nhà văn!
Khi đó, Gấu đã kiếm ra Thầy của mình.
Khi gặp BHD, Gấu nhận ra liền, tuổi thơ của thằng cu Bắc Kỳ, nhà quê, thấp thoáng ở trong dáng đi, nụ cuời ánh lên mầu da đen nhẻm cùng với chiếc răng khểnh của Em, là vậy.
Ngoài ra, còn là nỗi ước mong, BHD cầm giữ suốt cuộc đời còn lại của Gấu!
Hà, hà!
Nhưng, bằng cách nào mà BHD lại ‘thấu thị’ ra tất cả, và, bèn bỏ Gấu, và vừa đi vừa ngoái lại, lắc đầu:
Mi đâu có thương yêu gì ta! Mi thương một đứa con nít 11 tuổi, là ta đời thuở nào, và Hà Nội của mi ở trong con bé con đó!
Khủng khiếp nhất, là, kể từ khi Gấu lấy một em "miệt vườn" làm vợ, cái xứ Bắc Kít trả thù mới tàn bạo làm sao: Ta nguyền rủa đời mi, hễ cứ gặp bất kỳ một em Bắc Kít, là khốn khổ khốn nạn, là bấn xúc xích, là đều nhìn thấy một BHD của mi ở trong em đó!
Cuộc tình chót đời, vào lúc sắp xuống lỗ, đơn phương, của Gấu, là... tưởng tượng ra 1 em Bắc Kít, lấy chồng ngoại, và khi được hỏi, tại sao không lấy Mít, và, tại sao không lấy 1 tên Bắc Kít, Em trả lời, tụi khốn đó đâu có biết trọng đàn bà, nhất là đàn bà đã có 1 đời chồng mất đi vì cuộc chiến!
Thế là Gấu bèn tưởng tượng tiếp, ta sẽ là tên Mít đó, tên Bắc Kít đó, và ta nói, ta yêu Em, và chắc chắn em sẽ tin.
Nói tiếng Vịt, tất nhiên:
Anh "thươn" EM!
[Em gốc “rau muốn”, thành “giá sống”, từ 1954]
Ui chao, Em tin thiệt!
Gấu nhận được cái mail sau cùng của Em, chắc là trong mơ, mới tuyệt vời làm sao:
Tui bận lắm, đâu có thì giờ rảnh mà trả lời mail của anh.
Nào chồng, nào con, nào công việc chùa chiền, nào.. ‘viết’ nữa.
Nhưng cũng ráng viết vài dòng…
Ui chao GNV lại nhớ đến nhân vật của Camus, lo hết cuộc đời trần tục này, rồi nếu có tí dư, thì dành cho… trăng sao, và cho Gấu!
Tks. Take Care. Plse Take Care.
NQT

James Joyce có lần nói, tất cả các tiểu thuyết gia chỉ có mỗi một chuyện, và họ nói đi nói lại hoài, mỗi chuyện đó.
Gấu cũng đã từng bị mấy đấng độc giả quen biết phán, chỉ có mỗi chuyện Mậu Thân, đứa em trai tử trận, và BHD, kể đi kể lại hoài!
Tuy nhiên, quái đản nhất, là chuyện BHD: mọi cuộc tình của Gấu, đều chỉ để lập lại chuyện tình BHD!
Trừ cô bạn, cô phù dâu ngày nào.
Khủng khiếp quá.
Đúng là sự trả thù ngọt ngào, bi thương, và cũng dã man, tàn nhẫn, của xứ Bắc Kít!



&*

"Nàng thì rất nhiều đẹp hơn là vui": Tuyệt! Đúng là… Woolf!

Suy tư về Hòa Bường nhân Bom nổ ở trên đầu
Chúng ta phải bồi thường cho đấng đàn ông nào mất khẩu cà nông của anh ta.

Đọc 1 phát, là bèn nghĩ đến lần xém mất súng vì mìn VC ở nhà hàng Mỹ Cảnh!
Nhưng, trong tuyẩn tập những tư tưởng lớn của Woolf này, với Gấu Cà Chớn, bài hay nhất là Ám Ảnh Phố, Street Haunting, Woolf viết về Luân Đôn của Bà. Có những câu văn thần sầu, đúng như thế. Viết essay mà như làm thơ với ý nghĩ, tư tưởng, hình ảnh....

Thế nào Gấu cũng chôm bài này, và dịch ra tiếng Mít, lấy hứng viết về ám ảnh phố của Gấu, về Sài Gòn ngày nào của Gấu, nhất là những ngày làm đệ tử Cô Ba, Phố Gọi thì cũng có nghĩa là Cô Ba  gọi....

How beautiful a London street is then, with its islands of light, and its long groves of darkness, and on one side of it perhaps some tree-sprinkled, grass-grown space where night is folding herself to sleep naturally and, as one passes the iron railing, one hears those little cracklings and stirrings of leaf and twig which seem to suppose the silence of fields all round them, an owl hooting, and far away the rattle of a train in the valley. But this is London, we are reminded; high among the bare trees….

That is true: to escape is the greatest of pleasures; street haunting in winter the greatest of adventures
Đúng như thế: chạy trốn là vĩ đại nhất của lạc thú; ám ảnh phố mùa đông, vĩ đại nhất của phiêu lưu.

Ám ảnh phố mùa đông làm sao bằng ám ảnh Sài Gòn những ngày VC pháo kích, và, Cô Ba gọi!

Gấu mới đọc trên Gió O một chùm thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh về Phố, trong có bài Mõ Phố.
Mõ Phố là nick của Gấu do ông cụ ban cho, khi ông còn sống.
Chả là ông bị Tây ghét, cứ bắt đổi nhiệm sở hoài, và mỗi đứa con là kỷ niệm một nơi chốn.
Và cái đứa rành nơi chốn nhất, ngay từ ngày vừa mới tới, là thằng Mõ Phố.
Nhưng Woolf, hay Gấu & Cô Ba, hay Mõ Phố, gì thì gì, vẫn thua Walter Benjamin.
Độc giả TV đã đọc ông qua Những Kỳ Tích.

*

Gấu mới xuống, vớ được 1 số báo của Canada có bài về ông, đọc loáng thoáng thấy cũng thật ly kỳ bèn tắc lưỡi, như thạch sùng, đợp liền!

*

*

Bài viết ngắn, nhưng tuyệt lắm. Tác giả, Robert Fulford là 1 columnist của tờ National Post. Cây nhà lá vuờn, mời quí vị độc giả TV chiếu cố.

* 

Thương Xá, The Arcades Project, của Benjamin mở ra bằng câu thơ của một thi sĩ Việt Nam, để vinh danh Paris, Kinh Đô Thế Kỷ 19:
The waters are blue, the plants pink, the evening is sweet to look on;
One goes for a walk; the grandes dames go for a walk; behind them stroll the petites dames.
[Những dòng nước xanh, cây cối đỏ hồng, buổi chiều nhìn thú biết bao;
Người ta đi dạo, những mệnh phụ phu nhân đi dạo, theo sau nhẩn nha là những phụ nữ bình dân]
Nguyen Trong Hiep, Paris, capitale de la France: Receuil de vers (Hanoi, 1897), poem 25.
Bản tiếng Anh của Harvard University Press.

Nguyên bản tiếng Pháp [do Nguyễn Tiến Văn sưu tầm]:
Les eaux sont bleues et les plantes roses;
Le soir est doux à contempler;
on se promène.
Les grandes dames se promènent;
derrière elles vont et viennent de petites dames.

Nguyễn Trọng Hiệp [1934-1902], danh thần đời Tự Đức, quê Hà Đông, tác giả những bộ sử quan trọng như Minh Mạng Chính Yếu, Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, từng giữ chức Tổng Tài Quốc Sử Quán.
Hai câu thơ Benjamin trích dẫn, ở trong tập thơ Tây Sà Thi Tập.

Benjamin khởi sự viết Thương Xá tháng Năm 1935, sau khi bỏ chạy Đức Nazi qua Pháp. Vụ Yên Bái nổ ra vào năm 1930. Simone Weil bị ảnh hưởng sâu đậm bởi những bài báo trên tờ Người Paris Nhỏ, về số phận người Annamites, vài tháng sau khi vụ Yên Bay bị dập tắt trong hai tuần lễ. "Tôi không bao giờ quên được lúc mà, lần đầu tiên trong đời, tôi cảm và hiểu được bi kịch thực dân thuộc địa". Chắc là Benjamin cũng bị ảnh hưởng tương tự, và đó là lý do Benjamin mở ra Thương Xá bằng những dòng thơ của Nguyễn Trọng Hiệp, như là một tiên đoán sự cáo chung của chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam.

Engels nói với tôi rằng chính tại Paris, vào năm 1848, ở quán Café de la Régence [một trong những trung tâm sớm sủa nhất của cách mạng 1789), Marx đã trình bày cho Engels về định mệnh thuyết kinh tế về lý thuyết duy vật lịch sử của ông. - Paul Lafargue.

Vào năm 1757 cả Paris chỉ có 3 tiệm cà phê.
[Thương Xá, trang 108].

Tôi bị hạ đo ván, khi đọc Thương Xá, nói vậy vẫn chưa đủ mạnh!
Tôi biết, đây là một tác phẩm về lịch sử văn hóa, và nó còn thật có ích,
nếu được đọc như phê bình văn học, hay triết học.
Nhưng tôi không làm sao bỏ qua, ý tưởng, rằng,
đây là một bài thơ sử thi vĩ đại nhất được viết bởi thế kỷ 20:
mẩu đoạn, mâu thuẫn, xung đột, và mời gọi một cách thật là sâu thẳm.
André Alexis, Globe and Mail

Đây là sân khấu của tất cả những cuộc chiến đấu, tất cả những tư tưởng của tôi.
Benjamin viết về Thương Xá
NKTV

HERTA MÜLLER'S HUNGRY EYE

*

Found in Translation: the first English edition of a labour-camp novel impresses Simon Willis with its honesty and concision...
From INTELLIGENT LIFE magazine, November/December 2012

Author HERTA MÜLLER
English title THE HUNGER ANGEL
Original title ATEMSCHAUKEL (2009)
Original language GERMAN
Translator PHILIP BOEHM

This novel first appeared the year Herta Müller won the Nobel prize. The qualities which bagged her that gong—poetic concision and clear-eyed honesty—are here too, taking us inside the mind of Leopold Auberg, her narrator, an ethnic German from Romania transported in 1945 to a Soviet labour camp. It's a landscape of slag and gravel, digging and deprivation, always accompanied by the "hunger angel" of the title: "everything I did was hungry," Leopold says. "Everything matched the magnitude of my hunger in length, width, height and colour."

The book is full of touches like that—sensations taking on substance and form, inert objects becoming animated and insidious. The wind can listen, and cement "flies and crawls and sticks". Although Leopold is one of many in the camp, we're always with a real individual and in a real place. Müller's great strength is concrete detail. At night the bed bugs cluster where Leopold's dribble soaks into the pillow. 

The toil is unremitting, but Müller gives us light as well as dark. Leopold sees beauty in the pink streaks in a slag heap and in carpet beaters glimpsed on a drive to a brick factory. Most of all he finds consolation in memories of the ordinariness of home: "sometimes things acquire a tenderness, a monstrous tenderness we don't expect from them". It's a line that could apply to Müller's prose, always exactingly grounded by the practicalities of survival—managing a bread ration, lugging cinder blocks, or making a tasteless weed palatable. This is privation transmuted into poetry.

Simon Willis is apps editor of Intelligent Life

Gấu mua cuốn này cả bản tiếng Tây lẫn tiếng Anh, tính làm "chim mồi", để dịch và nhân đó, lấy đà, viết về những ngày đói trong tù VC!

Ý nghĩa của cuộc chiến Mít, mặt đẹp nhất của nó, là Cuộc Chiến Chống Lại Con Ma Đói, đời đời ngự trị Xứ Bắc Kít.
Trong bất cứ 1 tên Bắc Kít, đẻ ra 1 phát, là có ngay giấc mộng hoành tráng đó.
Lấy được Miền Nam 1 phát, giấc mơ biến thành ác mộng.
Mộng cái con khỉ gì nữa: Thực Tại Quỉ!
Quỉ Đỏ!

Bà Nội anh, chồng chết sớm, ở vậy nuôi hai người con trai. Mẹ anh có lần nói về sự hà tiện của cụ. Câu chuyện chắc do cha anh kể lại. Cụ kho một nồi cá, không dám cho con ăn một lần, cứ bắt để dành, sau cùng nồi cá biến thành ròi. Những ngày cuối cùng cụ bị bán thân bất toại, không một người con trai, con dâu nào kế bên, ngoài hai đứa cháu nội còn nhỏ, ham chơi. Tôi không hiểu bằng cách nào anh vẫn còn nhớ ước muốn cuối cùng của cụ.

Cụ thèm một tô phở Trung Hà (tên một thị trấn địa đầu tỉnh Sơn Tây, tiếp giáp Phú Thọ). Tôi nghĩ khi còn trẻ, phải chạy ngược chạy xuôi, buôn bán tảo tần nuôi con ăn học, chắc cụ đã có lần được thưởng thức một bát phở của một tay đầu bếp nhà nghề ở nơi thị tứ đông đúc đó. Đó là hương vị cuối cùng cụ còn giữ được của thế gian này

Tự Truyện

THÓI TRẢ NỢ MIỆNG

Ở chốn dân thôn, các thói xấu nên hổ thẹn nhất, nên lên án và bài trừ, là thói coi ăn uống là việc quan trọng hàng đầu trong quan hệ xã hội. Việc hiếu nghĩa mà không có mâm to bình lớn, ăn uống thỏa thuê thì bất thành hiếu nghĩa. Gia đình nếu không may có ông bà, cha mẹ nằm xuống, nỗi lo lắng nhất là làm sao đủ lợn, gà, rượu, gạo, để thết đãi các chức sắc và dân làng. Hàng mấy chục người quần quật, tíu tít vào việc này, đến nỗi lòng thương nhớ người chết cũng bị chìm đi trước nỗi lo đãi người sống.
Mà không lo sao được?
Nghe hơi có người chết đám Tổng Lý kỳ cựu đã chuẩn bị mồm chờ ăn, chờ uống, gân cổ cười nói, bẹp tai hút sách. Thiếu một chút là dài mồm dè bửu, coi là bất hiếu. Tốn phí vô cùng, chỉ mấy ngày mấy chục vị chức sắc ưa thích và bảo vệ, nhân dân trong lòng đâu có muốn đến mức ấy, nhưng không ăn ai dám tự ý làm khác.
Cũng chỉ vì, khi còn sống, ai cũng đã từng ăn uống như thế ở nhà khác, nay chết đi, con cháu phải tổ chức ăn uống  để trả nợ miệng cho người chết. Hàng nghìn đời trả nợ miệng như thế, nước ta vẫn đắm mình trong nghèo khó, lạc hậu. Nếu cả nước đồng lòng, đem công sức của cải góp phần lo trả nợ nước thì văn minh, khoa học sẽ đến với chúng ta. Thói ăn uống hủ bại như trên đúng là miếng ăn là miếng nhục.

(Đông dương tạp chí số 10 – 1913).

Nguyễn Văn Vĩnh
Nguồn

Đọc bài viết, thì ai cũng thấy đúng, như… một nửa ổ bánh mì, nhưng riêng với Gấu, nó đúng như…  một nửa sự thực!
Cụ Vĩnh, theo Gấu chắc là chưa từng bị đói, nên không nhìn thấy Con Ma Đói, thấp thoáng ở đằng sau những bữa cỗ….
 
Gấu bỗng nhớ “Giấc Mơ Lớn” của Bà Nội của Gấu. Cụ chỉ mong thằng cháu nội được 15 tuổi, là có phần thịt, mỗi lần Giỗ Lớn, ở Ngôi Nhà Thờ Lớn, của dòng họ Nguyễn
Vào Nam, Gấu bỏ lại được Con Ma Đói ở Đất Bắc, cho đến khi đi tù VC, thì gặp lại, chán thế!
Có lần, ở Toronto, Gấu gặp 1 đấng Bắc Kít, giầu lắm, bảnh lắm, nhưng, trong 1 lần tâm sự, khi Đêm Mưa Nhớ Bắc, ông ta cho biết, suốt thời gian ở xứ Bắc Kít, ông ta chưa 1 lần được ăn no, một bữa cơm!
Bà cụ TTT có lần kể cho thằng con nuôi của Cụ, là Gấu, nghe, hồi ở Hà Nội, ông anh phải đi dạy học ở mãi Hà Đông, một bữa về nhà, mặt mày xanh lét, gần như muốn ngất xỉu, nói với Cụ, con bịnh hay sao đó, Cụ lắc đầu, không phải bịnh, mà là đói quá đấy….
Bản thân Gấu cũng đã từng chuẩn bị miệng, y chang đám chức sắc trong mẩu viết, khi còn nhỏ, sau khi ông cụ mất tích, mỗi lần nghe bà cụ Gấu phán, bữa nay đi thăm Bà Trẻ!

Giấc mơ lớn của Bà Nội Gấu, nhân rộng lên, là giấc mơ của mọi tên Bắc Kít, phải làm sao “làm thịt” được con ma đói:

Gấu đọc Tô Hoài rất sớm, và giấc mộng, sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ, là do đọc ông mà có.
Khi còn ở xứ Bắc, mỗi lần đói, mỗi lần rét, mỗi lần ăn miếng ăn, ăn thêm một câu nói, là giấc mơ sẽ có ngày tới được nước Nam Kỳ lại trỗi dậy. (1)

Ý nghĩa của cuộc chiến Mít, mặt đẹp nhất của nó, là Cuộc Chiến Chống Lại Con Ma Đói, đời đời ngự trị Xứ Bắc Kít.
Trong bất cứ 1 tên Bắc Kít, đẻ ra 1 phát, là có ngay giấc mộng hoành tráng đó.
Lấy được Miền Nam 1 phát, giấc mơ biến thành ác mộng.
Mộng cái con khỉ gì nữa: Thực Tại Quỉ!
Quỉ Đỏ!

Gấu già rồi, mà vẫn còn nhớ những ngày đầu tới Sài Gòn, thời gian đó có những quán cơm xã hội, bạn vô ăn, trả tiền thức ăn, cơm ăn bao nhiêu tha hồ, đếch phải trả tiền.
Ui chao sao mà sướng thế!
Nhớ hoài.

Bà Nội anh, chồng chết sớm, ở vậy nuôi hai người con trai. Mẹ anh có lần nói về sự hà tiện của cụ. Câu chuyện chắc do cha anh kể lại. Cụ kho một nồi cá, không dám cho con ăn một lần, cứ bắt để dành, sau cùng nồi cá biến thành ròi. Những ngày cuối cùng cụ bị bán thân bất toại, không một người con trai, con dâu nào kế bên, ngoài hai đứa cháu nội còn nhỏ, ham chơi. Tôi không hiểu bằng cách nào anh vẫn còn nhớ ước muốn cuối cùng của cụ.
Cụ thèm một tô phở Trung Hà (tên một thị trấn địa đầu tỉnh Sơn Tây, tiếp giáp Phú Thọ). Tôi nghĩ khi còn trẻ, phải chạy ngược chạy xuôi, buôn bán tảo tần nuôi con ăn học, chắc cụ đã có lần được thưởng thức một bát phở của một tay đầu bếp nhà nghề ở nơi thị tứ đông đúc đó. Đó là hương vị cuối cùng cụ còn giữ được của thế gian này.
Tự Truyện


  *

*

*

Thời gian anh Mẽo Johnson chụp mấy bức hình này, cũng là thời gian Gấu gửi hình Bope Hope vừa tới phi trường Biên Hòa vừa bị VC pháo kích, và anh hề phán, Ui chao sẵn mấy cái hố, làm cái sân golf thì thật là tuyệt.
Giấc mộng thanh bình của anh, phải chờ Râu Kẽm mang tiền về, làm tên tội đồ sám hối, xin được xây dựng quê hương, xây cái nhà Mít bằng trăm bằng muời cái nhà cũ, thì mới trở thành hiện thực.
Cũng là thời gian Sếp UPI đầu tiên của Gấu tới Sài Gòn nhận nhiệm sở, Dirck Halstead. Nhìn những bức hình Gấu gửi đi, như bức của Bope Hope, trên nhật báo Mẽo, anh mang lên Đài cho Gấu coi, Dirck phán, hình trên báo còn bảnh hơn hình original.
Một lời khen thật tuyệt dành cho anh bồi Mít.
Một năm sau khi Gấu ăn mìn VC, 1965.
Cũng là thời gian BHD đậu xong Trung Học, vô Đại Học Y Khoa, đang học năm thứ nhất, tại Đại Học Khoa Học.
Tức là thời gian viết Khu Rừng Trong Đêm, 1 trong tứ tấu khúc về BHD và Sài Gòn.
Trên trang web của anh,
TheDigitalJournalist, Dirck viết, chiến tranh Mít xực hết cả tuổi trẻ của anh và đồng bọn.
Anh vờ 1 điều thật là đau thương, nó xực luôn cô vợ xinh đẹp của anh, hai vợ chồng bỏ nhau vì cuộc chiến Mít.
Gấu may hơn, có thể nói như vậy, chăng?
Vì Gấu cũng mất BHD đúng vào những ngày đó!
Cũng năm đó, bệ Gấu Cái từ Cai Lậy về Sài Gòn, trên con thuyền Noé!
Hà, hà!

Khu Rừng Trong Đêm

Ngày 28 tháng 3, tôi gặp lại H. lần cuối cùng. Trời bữa đó mưa. Trận mưa mở đầu mùa. Thời tiết thay đổi, khí hậu ẩm ướt làm cánh tay trái của tôi trở nên đau nhức, khó chịu. Tôi ra Sài Gòn, tìm một quán nước, vừa uống cà phê vừa ngó mưa. Quán này, ngày trước tôi và H. thỉnh thoảng có ghé. Tôi còn nhớ, một lần ngồi đây, cũng tại bàn này, tôi uống bia, và chợt có ý định muốn hôn nàng. Lúc đó buổi trưa, trong quán chỉ có một hai người ngoại quốc đang dùng bữa. Họ vừa ăn vừa cắm cúi đọc báo. Ngày hôm sau, nàng bảo tôi, nàng biết ý định của tôi lúc đó, và phải quay đi, để che giấu nụ cười.
Đang ngồi, đột nhiên nhớ đến nàng, đột nhiên tôi có ý định phải gặp nàng, và chỉ cần nhìn mặt nàng lúc này, là tôi biết rõ, nàng có còn yêu tôi hay không. Tôi đến Đại Học Khoa Học, và ngồi ở hiên ngoài, cũng là nơi tôi vẫn thường ngồi với bạn bè, hoặc ngồi một mình đọc sách, thay vì ngồi bên trong giảng đường nghe giáo sư giảng bài.

Tôi ngồi chờ nàng thật lâu. Cơn mưa vẫn tiếp tục. Cuối cùng, tôi chạy vào bên trong trường tìm nàng. Tôi gặp nàng đứng nói chuyện cùng mấy người bạn học. Nàng rời đám bạn, và hai đứa chúng tôi vừa đứng đợi ngớt mưa, vừa nói chuyện, những câu nói nhạt thếch. Khi mưa ngớt, chúng tôi thản nhiên chào nhau ra về, mỗi người đi một ngả đường. Khi nàng đi được một quãng khá xa, đột nhiên tôi quay lại, và chạy theo, chạy thật nhanh. Tôi bắt kịp nàng, và hỏi, nàng còn yêu tôi hay là không. Nàng lắc đầu. Tôi bảo nàng nói. Nàng nói. Nàng nói thêm, nàng chưa hiểu tình yêu là gì. Tôi mệt và giận, muốn đánh nàng, bất chợt, tôi nhìn thấy tôi, trong tấm kiếng chiếc xe hơi đậu kế bên đường: đầu tóc rũ rượi, thở hổn hển, cánh tay trái lòng khòng, nước mưa rỏ trên khuôn mặt hốc hác, tôi đột nhiên nhận ra khuôn mặt thảm hại của tình yêu, tôi đột nhiên có cảm tưởng đã sống hết đời tôi, đã sống hết mối tình. Tôi bảo nàng đi về, tôi bảo tôi đi về. Tôi hiểu rằng tình yêu của tôi đối với nàng đã hết.
*

Nhờ mấy tấm hình, thì Gấu mới suy ra được là, 28.3, là 28.3.1966

Trung tâm USO, nhà IH của Mẽo ở Nguyễn Huệ, được thành lập sau cú Mỹ Cảnh.
Bưu Điện lúc đó, qua đề xuất của ông trường đài, không cho Mẽo tới Đài nữa.
Và cũng do sự bành trướng, leo thang của cuộc chiến, thành ra mới có những USO, IH, Press Center dành cho ký giả Mẽo.
Trước họ kéo nhau lên Đài.
Trúc Chi, phóng viên làm cho BBC, có lên Đài, đã từng gặp Gấu, chuyên viên của Đài. Nhưng ra đến hải ngoại, thì mới thực sự quen nhau. Gấu viết về anh, về TCDT...  trong Một chuyến đi.
Bài viết cũng là 1 cú adieu băng Văn Học của NMG

*

Betsy Halstead, nữ ký giả UPI, 23 tuổi, trẻ nhất trong số ký giả, vợ Dirck Halstead, sếp UPI của GCC

Gấu lấy vợ, chỉ có Betsy & Dirck & Sawada là có quà mừng. Sawada, khi nghe Gấu nói, mới lấy vợ, anh hỏi, sao không mời tao. Gấu nói đám cưới mãi tít Cai Lay, many VC there. Anh cười kéo Gấu băng qua đường Catinat, đến khách sạn Majestic, bấm thang máy, lên sân thượng khách sạn, đãi 1 chầu ăn sáng, về văn phòng nói với Dirck, anh đưa tiền mua quà mừng, ký tên chung ba người.
Ngoài ra là chấm hết. Đám bạn quí vờ, chẳng thằng nào chúc mừng. Thư Trung, tức TPG, đi 1 đường trên Văn, như để cảnh báo mấy nữ độc giả. Gấu nhớ là Xìn Phóng cũng đếch thèm chúc mừng, mà là, “nên vợ nên chồng”!
Khốn nạn nhất là cái ông bạn quí đến nhà chơi xì tẩy, thua, mượn tiền Gấu Cái, em đâu có tiền, lắc đầu, thế là ông bạn quí nhìn thằng nhóc đang ngủ trong nôi gần bàn xì, hất hàm hỏi Gấu, sao tao thấy nó chẳng giống mày tí nào?
Dã man thật!
Về già, nhớ lại, hình như chưa thằng nào khen GCC, bài này, bài nọ… mày viết được đấy. Chỉ độc nhất 1 lần, khi  đọc TSVC, bạn quí thấy bài dịch James Joyce, ký Lý Thương Ẩn, được quá, chắc thế, tính khen, nhưng nghi sao, hỏi Gấu, mày hả, thấy gật đầu, mặt 1 đống!

Khi Gấu bắt đầu làm cho UPI, chưa có sếp. Dirck sau đó đâu chừng 1  hay 2  tháng mới qua, đúng dịp Bobe Hope và cả đám qua trình điễn giúp vui GI. Đúng thời gian phi trường Biên Hòa bị VC pháo kích. Bobe Hope nhìn những lỗ pháo, phán, làm sân golf thật tuyệt. Nhưng phải đến khi Râu Kẽm hồi chánh thì giấc mơ lớn của anh hề Mẽo mới được thực hiện.
Betsy qua sau, Gấu nhớ là Dirck có đưa lên Đài giới thiệu. Gấu có khen em gì đó, không nhớ, em ghé tai Gấu nói nhỏ, Dirck “gia trưởng”, và ghen dữ lắm.
Vào những ngày Sài Gòn thất thủ, Dirck, khi đó làm Time, qua làm phóng sự di tản. Anh ở khách sạn Oscar, đường Nguyễn Huệ, Gấu ghé, thấy anh khác hẳn trước, để râu ria xồm xoàm, rất híp pi. Gấu hỏi thăm Betsy, anh nói, ly dị rồi. Mới đây, khi liên lạc lại được, gọi phôn, anh cho biết, độc thân. Cuộc