*

 





Mời đọc,

TV

27.3.2014



                                                                              Thi sĩ Cung Trầm Tưởng

 

Cám ơn nhạc sĩ Cao Minh Hưng, nhạc làm theo thơ của thi sĩ Cung Trầm Tưởng như thơ dẫn ý mà ông ghi bài thơ ở trang  91 "Một Gam Chiều Hời",  của Tuyển Tập "Một Hành Trình Thơ, (1948-2008)”, Cung Trầm Tưởng, xem xong bài thơ tôi bắt ý bài “front-end” để cho ra” back-end” extension làm bài nhạc, tôi bàn với nhạc sĩ Cao Minh Hưng và gọi phone Cung thi sĩ ngay là đây là một đoãn thi khá ngắn, chỉ 4 câu nhưng ý súc tích, do cảm hứng và o 1959 đại để trước khung cảnh thiên nhiên Đà Lạt, khi sương chiều rơi, nghe âm nhạc từ gam chiều cất tiếng nhạc hời, lòng người buồn bao sầu rơi, hoang vắng khi trời tối, tâm tư theo phím dương cầm, cần làm extension cho bài nhạc, ông okayed.


Tôi nhớ bài thơ Phím Đàn ở trang 51 trong Tuyển tập "Tình Đầu" của thi/ca sĩ Thanh Lan, kể về nỗi buồn bâng khuâng vu vơ khi tiếng dương cầm cất lên, theo làn nhạc điệu Chopin. Từ đó extension có khúc hát "Sô-Panh" thêm vào bài nhạc. Dĩ nhiên Cao nhạc sĩ có cắt xén cho vừa khung nhac.

Xin cám ơn thi sĩ Cung Trầm Tưởng, ca sĩ Thanh Lan, và nhạc sĩ Cao Minh Hưng.

VHLA

 

_________________________________________________________________

Notes:
Chương trình Chiều thơ nhạc Cung Trầm Tưởng vẫn tiến hành như dự trù vào cuối tháng 6, 2014. Nhạc sĩ Anh Bằng, nhạc sĩ Trường Sa, nhạc sĩ Phạm Mạnh Đạt, nhạc sĩ Khổng Ngọc Loan và nhạc sĩ Hạnh Cư đang trong diễn trình nhận lời mời một bài nhạc cho chương trình đặc biệt này. 
  • Nhạc sĩ Nguyễn Tuấn (Penn State) chọn một bài thơ giai đoạn thi sĩ ở tù CS làm khúc tù ca, đã hoàn thành. Sẽ làm youtube sớm.
     
  • Nhạc sĩ Võ Tá Hân cùng đã hoàn tất một bài tinh ca Cung Trầm Tưởng, bài "Lời Thề Nguyền Yêu Thương". Thơ chính là bài "Núi và Suối Một Huyền Sử" ông tặng hiền nội, trang 444 của thi tập Một Hành Trình Thơ (1948-2008), Cung Trầm Tưởng, nhưng được kết hợp thêm vào 2 trích đoạn thơ của 2 thi sĩ xứ ngoài, bài Rondel De  L’Adieu (Ca Khúc Biệt Ly) của thi sĩ Pháp Edmond Haraucourt (1856 - 1941, chủ đề L'Amour - Romance) và bài The Mystery of Pain (Bí mật của khổ đau) của thi sĩ Mỹ Emily Dickinson (1830 – 1886, chủ đề Melancholy - Death), trích đoạn ghép ý thơ "buffered" thêm cho thơ chính của Cung Trầm Tưởng, tôi làm sự tổng hợp thơ của 3 thi sĩ và bài  chung được hình thành, nhạc sĩ phổ nhạc sau đó. Nhạc của Võ Tá Hân sẽ cho ra youtube.
     
    Thơ là lối văn chương súc tích cô đọng nỗi lòng hay tâm cảm của nhà thơ, nếu có sự kết hợp giữa văn chương thi ca chỉ vì nỗi niềm được dàn trải cảm nghĩ chung về tâm tư và đời sống theo ý tưởng thầm kín mà tôi đã suy nghĩ.

Xin cám ơn tất cả. J’aime tout le monde.

Trần Việt Hải.
___________________________________________________________________________________________________

alt

Mặc Lâm
Cung Trầm Tưởng là một nhà thơ rất quen thuộc từ đầu thập niên 60. Tên tuổi Ông nhanh chóng tràn vào giới thanh niên trí thức thời bấy giờ khi ông từ Pháp trở về Việt Nam cùng không khí lãng mạn của phong trào thơ mới, lúc đó vẫn còn ảnh hưởng nhiều đến thanh niên trí thức Việt Nam.
Ngay cái tên của ông cũng đã ấn tượng đối với nhiều người vì chất văn học rất đậm trong mỗi chữ: Cung Trầm Tưởng.

alt

Nhà thơ Cung Trầm Tưởng

Cung Trầm Tưởng                                                                     


 Nghe thêm các bài về Cung Trầm Tưởng


“Tôi là Cung Trầm Tưởng vào khoảng 50-51 tôi du học tại Pháp..sau đó tôi thi đỗ vào trường không quân của Pháp học chung với ông Nguyễn Xuân Vinh, ông Nguyễn Ngọc Loan…Đến năm 1957 tôi trở lại Sài Gòn và phục vụ trong binh chủng không quân cho đến ngày 30/4/1975 tức là được 23 năm.
Trong thời kỳ ở Pháp tôi làm thơ rất nhiều tập trung vào thơ lãng mạn, tình yêu đôi lứa như Mùa Thu Paris, Chưa Bao Giờ Buồn Thế được tôi sáng tác trong khoảng thời gian này. Có những bài thơ tôi chưa từng đăng bất cứ báo nào thì bây giờ nó sẽ được tập trung lại trong toàn tập thơ của tôi trong 60 năm mang tên Cung Trầm Tưởng và Hành Trình Thơ, sẽ được xuất bản trong năm tới.”

alt

Cung Trầm Tưởng và Du Tử Lê


Cung Trầm Tưởng vừa sơ lược cho chúng ta biết về đời sống sáng tác của ông mà trongđó phần quan trọng nhất làm nên một Cung Trầm Tưởng từ một bài thơ sống rất lâu trong trí nhớ nhiều người đó là tác phẩm Mùa Thu Paris. Tác phẩm này được đem tới người nghe qua tài năng của Nhạc sĩ Phạm Duy khi ông phổnó thành thơ và giới thiệu trên đài phát thanh Sài Gòn.
Ngôn ngữ trong bài thơ thật ra không phải mới lạ hay phá cách để nổi tiếng, bài thơ được giới trẻ đón nhận một cách thích thú vì một chi tiết trước đó chưa bao giờxảy ra, đó là:

alt


Từ trái: Cung Trầm Tưởng, Phạm Duy và Ngy Cao Uyên

Một chàng thanh niên Việt Nam du học có người yêu bên Pháp với tóc vàng mắt xanh… hai người yêu nhau và chính những cuộc chia tay trên ga vắngđã thi vị hóa câu chuyện để nó trở thành một mode mới trong đời sống thanh niên thời bấy giờ. Bài thơ như một trang sách mới cùng những con đường lạ lẫm bên trời Tây mở ra cho giới trẻ và đâu đó người đọc cảm thấy phần nào hả hê bù đắp lòng tự ái dân tộc đã bị mất mát khá nhiều dưới gót giày được gọi là khai hóa văn minh của thực dân Pháp.
Mùa thu Paris
Mùa thu Paris
Trời buốt ra đi
Hẹn em quán nhỏ
Rưng rưng rượu đỏ tràn ly
Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa
Công trường lá đổ
Ngóng em kiên khổ phút, giờ
Mùa thu âm thầm
Bên vườn Lục-Xâm
Ngồi quen ghế đá
Không em buốt gía từ tâm
Mùa thu nơi đâu ?
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín đỏ trái sầu
Mùa thu Paris
Tràn dâng đôi mi
Người em gác trọ
Sang anh, gót nhỏ thầm thì
Mùa thu không lời
Son nhạt đôi môi
Em buồn trở lại
Hờn quên, hối cải cuộc đời
Mùa thu! mùa thu
Mây trời âm u
Yêu người độ lượng
Trông em tâm tưởng, giam tù
Mùa thu !… Trời ơi ! Tình thu !
Nhà thơ Cung Trầm Tưởng chia sẻ với chúng ta kỷ niệm về bài thơ này:
“Tôi làm những bài thơ về Paris đó là có thật. Lẽ dĩ nhiên khi làm thơ thì mình cũng lý tưởng hóa nó một chút, tất cả về tóc vàng mắt xanh là có thật. Thời đó tôi học ở trường Pháp cứ bị mang tiếng là Tây con, đã sẵn có ngôn ngữ Pháp và văn hóa Pháp thấm nhuần trong người thành ra sang bên đó mình không bị lạ lẫm. Tôi gặp một số mối tình dù rằng không vĩnh viễn nhưng nó đánh giá những kỷ niệm đầu đời của mình.”
Kỷniệm đầu đời cùng các mối tình tóc vàng mắt xanh ấy đã là nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ của Cung Trầm Tưởng vào thời mới lớn. Những chiếc ga nhỏ nằm trơtrọi giữa mùa đông nước Pháp đã từng chứng kiến biết bao cuộc chia tay trướcđó, lại một lần nữa nhìn ngắm mối tình dị chủng giữa một chàng trai một đất nước bị trị và một cô gái tóc vàng, đại diện cho văn hóa và nếp sống phương Tây.
Từ đây trong hơi thở rẽ chia ấy, bắt đầu một thấm đượm khác nối liền hai bờ đại dương. Và cũng bắt đầu một vói ra ngoài, một trằn trọc mới đối với hàng triệu thanh niên Sài Gòn thời bấy giờ.


Chưa bao giờ buồn thế

Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Tiễn em về xứ mẹ
Anh nói bằng tiếng hôn
Không còn gì lâu hơn
Một trăm ngày xa cách
Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng
Hôn nhau phút này rồi
Chia tay nhau tức khắc
Khóc đi em. khóc đi em
Hỡi người yêu xóm học
Để sương thấm bờ đêm
Đường anh đi tràn ngập lệ buồn em…
Ôi đêm nay
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa đông Paris
Suốt đời làm chia ly
Tàu em đi tuyết phủ
Toa anh lạnh gió đầy
Làm sao anh không rét
Cho ấm mộng đêm nay
Và mơ ngon trên khắp nẻo đường rầy !
Trời em mơ có sao
Mình anh đêm ở lại
Trời mùa đông Paris
Không bao giờ có sao
Trời mùa đông Paris
Chưa bao giờ buồn thế !


Cung Trầm Tưởng không phảỉ chỉ làm thơ tình với những khuông mẫu yêu đương trai gái. Dù lãng mạn hay cổ điển thì thơ tình không thể chia sẻ được hết mọi khổ đau của một người bị đày đoạ trong vòng tù ngục. Cung Trầm Tưởng như hàng trăm ngàn người khác sau khi Sài Gòn sụp đổ, đã cùng với đồng đội vào những nhà tù tập trung cải tạo để trả lời cho bài học lịch sử về ý nghĩa cuộc chiến tranh mà ông và đồng đội là những người thua cuộc.
Thơ của Cung Trầm Tưởng từ đây trở thành lạnh lẽo và chai cứng hơn. Chữ nghĩa ông sử dụng trong các bài thơ tù trở nên sắc sảo đến kỳ lạ. Sắc sảo và đớn đau như kim châm vào tim giữa mùa đông miền Bắc:

Áo tù thẫm máu đôi vai
Bàn chân nứa chém, vành tai gió lùa
Ngó tay bỗng thấy già nua
Cứa em thân xác thấy mùa thu qua
Môi cằn má hóp thịt da
Ngô vơi miệng chén canh pha nước bùn
Đêm nằm ruột rỗng vai run
Đầu kề tiếng súng chân đùn bóng đêm…

Bài thơ được làm tại Hoàng Liên Sơn vào mùa thu năm 1977 cách bài Mùa Thu Paris hơn 25 năm. Khoảng cách thời gian không làm bài thơ lạnh hơn mà chính khoảng cách con người làm bài thơ gần như hóa đá.
Ngôn ngữ thơ trong bài này bàn bạc những ẩn ức rất đời thường của người tù và người đọc cảm nhận ngay tính chất cay nghiệt của nó.

Thế nhưng Cung Trầm Tưởng lại có những bài thơ tù thấm đậm chất triết học. Nhà thơ tĩnh tại nhìn ngắm biến thiên của đời sống và thiền định tâm tưởng mình với những câu tuyệt đẹp:

Mưa về gióng lê thê
Nai kêu nguồn đâu đó
Xưa nay tù ngục đỏ
Mấy ai đã trở về
Vỗ, vỗ rơi tàn thuốc
Thả khói vào mông lung
Hư vô đẹp não nùng
Nụ hôn đời khốc liệt

“Nụ hôn khốc liệt” dành cho đời phải chăng là một cách phản ứng thụ động trong thế giới bừng bừng thống nhục mà nhà thơ đang trải nghiệm?

Cõi sầu ta tinh khiết
Thép quắc vầng trán cao
Phong sương dệt chiến bào
Với máu se làm chỉ
Đã đi trăm hùng vĩ
Xông pha lắm đoạn trường
về làm đá hoa cương
Gởi đời sau tạc tượng
Huệ trắng trinh nguyên sau một đêm
Huệ trong thư các huệ ngoài thềm
Sớm nay Chủ Nhật thơm thương quá
Chỉ có Sài Gòn trong dáng em
Chủ Nhật niềm tin màu huệ trắng
Hiền từ xoạt áo như lời kinh
Em đi lễ nhất trời trên ngõ
Dẫy tóc đen mềm ánh sao xanh…

Sài Gòn dưới mắt nhà thơ đã dần dần lấy lại được hình ảnh tinh khôi của nó vào những sớm mai trong trẻo. Người con gái trong thơ ông từ từ sống lại, khác với cô tóc vàng khi xưa, cô gái Sài Gòn bây giờ trắng như huệ và trong như ban mai trinh nguyên của một Sài Gòn ấm áp.
Tuy thế, người yêu thơ Cung Trầm Tưởng không dễ gì quên cô gái tóc vàng bên trời Tây cách đây hơn 50 năm để chia sẻ những cảm nhận của nhà thơ những hình ảnh của các cô gái Sài Gòn ngày nay.
Tiếng còi tàu vẫn chứng tỏ ma lực của nó quyến rũ người đọc thơ đến mức sau bằng ấy năm, hình như mỗi lần nghe lại bản nhạc Tiễn Em do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ bài thơ “Chưa Bao Giờ Buồn Thế” của ông, người nghe vẫn cảm thấy hình như đang dấy lên nỗi buồn man mác.
Nỗi buồn không tên nhưng có thật. Và nó vẫn ở đấy trong bất cứ người nào nếu từng thừa nhận rằng sự chia tay nào cũng đều rơi nước mắt…

Nguồn sống hồi sinh
Cung Trầm Tưởng trở về với cuộc sống sau khi đã nếm trải đầy đủ mọi thứ mùi vị của tù nhân như hàng trăm ngàn người khác.
Trong không khí gia đình, ông có những dòng thơ gợi mở tinh khiết hơn sau nhiều năm tháng thiếu vắng. Tiếng chuông nhà thờ và những nhành huệ trắng đã giúp ông gội rửa tâm tình để tâm hồn ngày một tươi tắn hơn, Ông tìm ra được nguồn suối trong ngay tại nhà mình hay nói đúng hơn, ngay tại lòng mình, một cõi lòng đang chuyển mình cùng với thiên nhiên để tạm quên cõi tục.

Theo RFA