*

 
Chuyện Văn





 

Ai điếu Gregor Samsa
Frank Humes

Lời người dịch:

Độc giả đã chia sẻ nỗi đau buồn cùng Milena qua ai điếu đọc trước mồ người bạn tri kỷ của bà là Franz Kafka. Nay xin cùng chia sẻ nỗi buồn chung, nhân cái chết của Gregor Samsa, trong Hóa Thân.

Đây là câu chuyện một người con trai, cũng là người lo cơm áo cho cả gia đình, một buổi sáng ngủ dậy, thấy biến thành con bọ...
Gregor Samsa vừa mới qua đời do một hiện tượng không thể giải thích nổi. Samsa, một người bán hàng vải luôn phải nay đây mai đó, rất chịu thương chịu khó, công việc làm ăn đang trên đà thuận lợi, thế mà tự dưng lăn ra chết.
 Dư luận xì xào, Samsa là nạn nhân của một chứng bịnh lạ, chỉ  trong một đêm, nó biến đổi hẳn hình dạng người bệnh. Người ta tin rằng chỉ trong một đêm, Samsa biến thành một con bọ ghê tởm (a "monstrous vermin"); nhưng hỡi ơi, những chi tiết về chuyện này chưa được xác nhận. Sau sự "hoá thân" này, Samsa được gia đình săn sóc, trong bộ dạng mới của anh, với hy vọng anh hồi phục, (nghĩa là) thoát ra khỏi tình trạng đó. Vào lúc này, nhà chức trách đang xem xét thi thể mong tìm ra nguyên nhân đích thực của cái chết.
Gregor Samsa để lại sau anh một gia đình thân thương mà anh hết lòng lo lắng. Tai ương làm bà mẹ Samsa bối rối nhưng có vẻ như bà cam chịu, bằng lòng với cuộc đời còn lại của bà. Bà thừa nhận, Gregor đã làm việc cực nhọc, chẳng bao giờ được ở nhà, có thể vì vậy mà tai ương đã giáng xuống mái đầu xanh. Bà cũng ghi nhận một điều, đây là bổn phận của anh, phải kiếm tiền bạc lo cho những người còn lại trong gia đình, bởi vì người cha vừa mới về hưu. Bà nhấn mạnh vào điều này, bởi vì bà tin tưởng nếu con bà cần một dịp nghỉ ngơi, chắc chắn là nó đã làm việc đó rồi, khi có dịp thuận lợi.

Người cha tỏ ra cứng cỏi suốt thời gian xẩy ra câu chuyện. Mất đứa con thực là bi thảm, nhưng ông cũng coi đây là cơ hội cho gia đình xúm nhau lại cùng vượt qua cơn khủng hoảng. Người anh Samsa thôi nghỉ hưu và có ngay một việc làm tại một ngân hàng để bù lại số thu nhập đã mất. Người cha của Samsa đã coi biến cố như là một cơ hội để bắt đầu một giai đoạn mới trong gia đình. Ông giải thích Gregor đã ngã xuống vì bịnh hoạn, làm cả nhà đau đớn khá lâu, và bây giờ như vậy kể như mọi chuyện đã ngã ngũ, và đây là một tia sáng mới cho gia đình.

 Em gái Samsa, Greta, tỏ ra đau đớn nhất vì hậu quả của tai ương, bởi vì hai anh em thật thân cận; tuy nhiên, có vẻ như cô cũng muốn bỏ hết mọi chuyện ở phía sau. Cha của cô đồng ý một điều, cuối cùng cô là người được hưởng lợi. Lý do là mọi chuyện hầu hạ con bệnh là ở cô; từ những kinh nghiệm này, chuyện tình cảm, chuyện tinh thần, ngay cả chuyện thể xác, cô đã lớn lên nhiều, có lẽ vậy. Cha cô chỉ ra rằng thời kỳ vừa qua là một tai họa cho cô nhưng bây giờ, khi nó chấm dứt, cô như một bông hoa mới nở.

 Những phản ứng của những người trong gia đình cho thấy, cái chết của Gregor Samsa có lẽ không bi đát như vậy đâu. Anh hết còn phải nay đây mai đó mời chào năn nỉ người ta mua hàng, và đã hất đi được gánh nặng phải lo lắng cho gia đình. Có thể suy ra một điều là, ngay chính Gregor, do ý thức tới chuyện cơm áo của gia đình, đã muốn thà chết đi còn hơn là một tội nợ cho cuộc sống của họ. Điều thực sự bi đát ở đây là, sau những diễn biến như trên, cái chết của Gregor Samsa sẽ không được nhắc nhở gì tới nữa.

 Sự câm lặng.

 Chuyện xưa, một ông vua giấu sáu cậu con trai và một cô con gái vào trong rừng, vì bà vợ sau của ông vốn là một mụ phù thuỷ. Tuy nhiên bà phù thuỷ cũng tìm ra sáu đứa nhỏ, và ném lên mình chúng sáu chiếc áo sơ mi bằng lụa đã được phù phép, biến chúng thành sáu con thiên nga. Bà không biết sáu anh em còn một cô em gái.

 Cô bé đi tìm anh. May mắn làm sao, cô gặp được, bởi vì mỗi ngày họ có mười lăm phút trở lại dạng người. Khi từ giã, cô được mấy người anh cho biết: mấy người anh chỉ có trở lại làm người, khi cô ném lên mình họ sáu chiếc áo, do chính tay cô đan trong sáu năm, bằng một thứ cỏ gai.

 Trong sáu năm ròng rã đó, cô không được cười, không được nói.

 Cô bắt tay ngay vào việc.

 Rồi một ngày đẹp trời, một ông vua ghé qua, và nhận ra một nhan sắc. Hỏi thế nào cũng không nói. Nhưng điều này không làm ông vua đổi ý, khi quyết định cưới cô làm vợ. Và họ có được một đứa con trai. Bà mẹ sai người bắt đứa bé, vu cho cô làm chết nó. Đối lại những lời cáo buộc, chỉ là sự câm lặng. Đứa bé thứ nhì, thứ ba, cũng vậy. Cô lặng câm, cặm cụi cúi xuống manh áo đang đan. Ông vua, dù lúc nào cũng thương vợ, nhưng đành phải kết tội chết. Ngày cô lên giàn hỏa cũng là ngày cuối cùng của thời hạn nghiệt ngã. Khi sáu con thiên nga xuất hiện, cô ném sáu chiếc áo lên mình chúng và lời nguyền hết linh. Cậu út, vì chiếc áo chưa kịp đan xong, vẫn lủng lẳng một cánh thiên nga.

 Trên đây là tóm tắt một chuyện cổ (conte) của Grimm [Jakob Ludwig Karl 1785-1863, người Đức, cùng với người anh là tác giả Những Chuyện Thần Tiên (Fairy Tales, 1812-14) dựa theo chuyện kể dân gian].

 Và sau đây là tóm tắt chú giải của Simone Weil.

 Bà cho rằng, trong những tư tưởng tuyệt vời của Platon, có những tư tưởng ông kiếm được, nhờ suy nghiệm về những huyền thoại. Bà tin rằng, những huyền thoại của chúng ta cũng có những tư tưởng đẹp. Và bà đã thử chọn lựa một cách thật tình cờ, chuyện sáu con thiên nga của Grimm, sau khi cẩn trọng người đọc: sẽ là thực những gì tôi sẽ nói.

 Chúng ta phải để ý tới cái thời điểm mà người em gái ném lên mình những con thiên nga những chiếc áo cỏ. Bằng một cú ném áo, họ đã bị trù yếm; cũng bằng một cú ném áo như vậy, họ được giải thoát. Họ bị biến dạng đâu phải do lỗi của họ, và họ trở lại làm người, là do lòng yêu thương của cô em. Nếu họ bị biến dạng do những lỗi lầm mà họ đã phạm, có thể họ sẽ phải trải qua đau khổ, rồi mới được trở lại làm người. Trong câu chuyện, họ nhận điều xấu cũng như điều tốt, là từ bên ngoài. Câu chuyện sẽ khác hẳn, nếu cô em gái đi tìm một thứ dược thảo thần kỳ. Như vậy dược thảo cứu họ, chứ không phải cô em. Chúng ta tưởng rằng những chiếc áo cỏ đã giải thoát họ, không phải vậy. Chính cô em gái, bằng khổ nạn mà cô đã tự ôm lấy: cặm cụi đan áo cỏ trong sáu năm, không được cười, không được nói. Sự câm lặng phá huỷ lời nguyền, làm cho nó trở nên vô hiệu.

 Im lặng. Không nói. Không cười. Trong sáu năm ròng rã. Ở đây, sự câm nín, nhẫn nhục trinh nguyên đã tác động. Tình yêu của ông vua, những lời buộc tội của bà mẹ chỉ làm tăng thêm thử thách. Phải cực kỳ khó khăn, cực kỳ khổ nạn, sự cứu rỗi mới rạng rỡ, đức hạnh mới bật ra. Cỏ gai đâu phải để đan áo! Ngay cả hành động đan áo cũng chỉ có một giá trị biểu tượng, chính hành động “không hành động” (không nói không cười), hay dùng từ của Simone Weil, chính cái gọi là hư vô của hành động (le néant d’action) mang trong nó, đức hạnh. Và theo bà, tư tưởng này đã tới được chốn sâu thẳm nhất của tư tưởng đông phương.

 Bài học từ câu chuyện Grimm, sự câm lặng, bàng bạc trong tác phẩm của Weil, từ những năm chiến tranh. Thí dụ như trong Cahier VI: “Chủ đề về sự thơ ngây vô tội tự nguyện không chống trả. Những con thiên nga.” Và vào những giây phút cuối cùng của đời mình, trong “sổ tay ở Luân Đôn”, bà hình như tự đồng nhất với nữ nhân vật ở trong câu chuyện cổ tích: “Sự câm lặng của cô gái nhỏ trong Grimm [nhờ vậy] mà cứu được những người anh… Sự câm lặng của Đấng Ky Tô. Một thứ thỏa uớc thiêng liêng, một hợp đồng của Thượng Đế với chính Người, từ đó, thế gian bị kết án: chỉ tới được sự thực bằng [hành động] câm lặng.”

 Tôi đọc Weil, và bỗng nhớ những đêm Cali không ngủ vì vụ Trần Trường. Tuy không phải là người Cali, nhưng đúng vào dịp đó, Jennifer tôi có mặt, và đã thường trực tham dự những đêm không ngủ. Ở đó, tôi đã gặp một anh bạn học từ những năm trung học. Cả hai đã từng sát cánh bên nhau, trong vụ biểu tình đầu tiên sau 1954, tại Sài Gòn, để phản đối phái đoàn CS trú ngụ tại khách sạn Majestic và khách sạn Ga-li-ê-ni những ngày sau di cư. Anh cho biết, kể từ ngày đó, bây giờ anh mới lại đi… biểu tình! Và còn gặp nhiều đồng nghiệp trước 1975, chưa từng bao giờ đi biểu tình. Có anh bạn cả đời chỉ cặm cụi làm việc, khi còn ở Việt Nam cũng như khi đã chạy qua Cali sau khi ra trại tù, vậy mà đêm nào cũng ra ngồi… thiền giữa trời!

 Tôi nhận ra một điều, đa số những người đi biểu tình xử sự như anh: họ ngồi im lặng, không nói, không cười. Như đang cầu nguyện, trong câm lặng.

 Và tôi hiểu ra một điều: đây là một cuộc lễ cầu siêu vĩ đại nhất, trong câm lặng, vào cuối thiên niên kỷ, cho tất cả những người đã ngã xuống vì cuộc chiến, và sau đó…

 Và tôi tự hỏi, phải chăng những tiếng hò hét chung quanh sự câm lặng chính là “cú ném áo đầu tiên’, của một con mụ phù thuỷ có tên là “lịch sử của quá khứ”?

Giả và thật trong văn chương.

Nhà văn Nga, Andrei Makine, viết văn bằng tiếng Tây, được hai giải thuởng văn chương lớn của Pháp, Goncourt và Médicis, trong cùng một năm (1995),  cùng một tác phẩm, Di chúc Pháp (Le Testament francais); chưa kể giải Goncourt của giới học sinh trung học. Khi chưa nổi tiếng, ông đã phải bịa ra những “nguyên bản ma”, tức là coi những tác phẩm của ông, là những bản dịch, từ tiếng mẹ đẻ, bởi vì chỉ như vậy, nó mới gây được sự chú ý ở giới xuất bản và độc giả Pháp: Họ muốn tin rằng, đây là một “Kẻ Xa Lạ” (tên một tác phẩm của Camus), viết văn bằng tiếng Pháp, về nước Pháp! Và nước Pháp “của chúng ta” sẽ còn tuyệt vời tới mức nào, ở trong nguyên bản bằng… tiếng Nga!
Nhưng trái với quan niệm thông thường, theo đó, dịch là phản, nhà văn người Argentina, Jorge Luis Borges, cho rằng: nguyên tác không trung thực bằng bản dịch (the original is unfaithful to the translation).

 Chứng cớ cũng nhiều: Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng hạn, “bản dịch” ăn đứt nguyên bản, của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyên bản bám chặt vào “hiện thực” của một thời đại Gia Tĩnh nhà Minh. Phó bản vượt ra khỏi những câu thúc mang tính lịch sử, thời đại, và nhập vào một cõi người, như là một nơi chốn tương tranh, mà sau cùng cái đẹp sẽ cứu chuộc nó (thế giới). Cũng vậy, những tác phẩm của Garcia Marquez đã vượt hẳn nguyên bản, của Faulkner. Nói một cách khác, Garcia Marquez làm sống lại Faulkner, nhưng không phải một Faulkner của cuộc nội chiến Nam Bắc nước Mỹ, mà là một Faulkner của vùng đất Nam Mỹ với những vấn nạn của nó.

 Trường hợp James Joyce cũng vậy. Những phó bản của Ulysses, nói rõ hơn, dòng văn chương độc thoại nội tâm, vốn thật tối tăm, thật khó hiểu, ở Joyce, đã được “tục hoá”, bởi những nhà văn như Faulkner, Hemingway, Claude Simon…  Theo nghĩa đó, Borges cho rằng, chính học trò khám phá ra thầy: mỗi nhà văn ‘sáng tạo ra’ những tiền thân của riêng mình. Tác phẩm của anh ta sửa đổi quan niệm của chúng ta về quá khứ, như nó sẽ sửa đổi tương lai (every writer ‘creates’ his own precursors. His work modifies our conception of the past, as it will modify the future).

 Nhận định “bản dịch trung thực hơn nguyên tác” của Borges, là do thuở nhỏ, ông học tiếng Anh trước khi có thể đọc được tiếng Tây Ban Nha. Ông sống trong cả hai ngôn ngữ: tiếng Anh là để nói chuyện với bố mẹ, tiếng Tây Ban Nha, trong cuộc sống thường nhật. Chính vì vậy, sau này, khi đọc Don Quixote bằng nguyên bản Tây Ban Nha, ông thấy đây là một bản dịch dở, so với bản tiếng Anh của thời thơ ấu. (When later I read Don Quixote in the original, it sounded like a bad translation to me). Và, “thừa thắng xông lên”, ông bèn coi tác phẩm Don Quixote, của Cervantes, là một tác phẩm giả. Ông chứng minh, đồ “zin”, là của một tác giả tên là Pierre Menard (do ông bịa ra). Ông được coi là một trong những người kể chuyện vĩ đại nhất của thế kỷ 20: một người viết những bài điểm sách, về những cuốn sách không hề có, của những tác giả “giả” (a man who wrote book reviews of nonexistent books by imaginary authors).

 Truy tìm thật giả trong văn chương quả là một công việc nguy nan. Mới đây thôi, một cây viết hải ngoại la bai bải, “tài liệu giả, bà con ơi!”, khi đọc một số bài viết ở trong nước. “May quá”, đây chỉ là một báo động hoảng!

 Và cũng mới đây thôi, báo chí Tây Phương, tờ Time chẳng hạn, đã ‘thông báo” về một mất mát trong giới văn chương: chuyến tầu suốt, vào ngày 12 tháng Chín, 2000, của nhà văn Konrad Kujau. Còn tờ Người Kinh Tế (The Economist, số Sept 23-29, 2000), thì đi cả một đường ‘cáo phó’.

 Nhưng Konrad Kujau là ai vậy?

 Xin thưa, đây là người đã ngụy tạo tác phẩm: Nhật Ký của Hitler.

 Qua bài cáo phó, đối với ông vua xài bạc giả này, thế giới đúng như Shakespeare nhận định, “một sàn diễn lớn của những tên khùng” (The world is a ‘great stage of fools’). Bởi vậy cho nên, ông chẳng hề tỏ vẻ ngạc nhiên, khi đám khùng rối rít khen nhặng cả lên tác phẩm của ông: Nhật Ký Hitler, đã được vồ vập (bought), bởi báo Stern (Đức), Thời Báo Chủ Nhật (Sunday Times, Anh), và Tuần Tin Tức (Newsweek, Mỹ). Theo họ, đây là một ‘tin động trời’ (a scoop), của thế kỷ. Nó còn được một trong những chuyên gia số một thế giới về thời kỳ Hitler, là Hugh Trevor-Roper ca ngợi. Ông la bai bải: thứ thiệt, thứ thiệt! Tuy nhiên, sau đó, người ta khám phá ra rằng, thứ giấy dùng để viết nhật ký, được chế tạo sau khi Ông Trùm Nazi đã ngỏm củ tỏi. Ông vua xài bạc giả đã nhuộm nó bằng nước trà cho có vẻ… xa xưa!

 Chuyện thiên hạ vồ vập nhật ký của ông trùm Nazi, cũng dễ hiểu: Hitler đã, và sẽ mãi mãi còn là một trong những con quỉ ‘hớp hồn’ người đọc. Người ta còn tò mò muốn biết, người đẹp của ông trùm, là Eva, có ‘sexy’ không? Konrad thực có tài, (he did have a gift), theo bài viết trên Người Kinh Tế. Ông có thể vẽ, và có một con mắt tốt (a good eye), về chi tiết, theo thuật ngữ của giới hội họa. Khi còn trẻ, ông học nghệ thuật ở Dresden, khi đó còn thuộc Đông Đức. Dời qua Tây phương vào năm 1957, làm ba việc vặt vãnh, dành dụm tiền bạc, và mở được một cửa tiệm ở Stuttgart. Mỏ bạc giả của ông: hồi tưởng, hình ảnh tướng lãnh, những nhân vật nổi tiếng thời Nazi. Mấy thứ này dễ ợt, làm kèm với phiếu ăn trưa (luncheon vouchers). Ngửi thấy mùi, thiên hạ mê những món dính tới chính Hitler, ông bèn chế tạo dăm ba bài thơ, một vở opera, tranh mầu nước Fuhrer là tác giả. Rồi tới nhật ký về vài tháng trong năm 1935. Gerd Heidermann, một nhân viên của tờ Stern, và cũng là người đỡ đầu tiệm của Mr. Kujau, rất quan tâm tới nhật ký. Ở đâu ra vậy? Còn nhiều nữa hay chỉ có ngần này?

 Ông này sau đó đã thuyết phục Stern, và vài triệu đô la đã được tờ báo chi ra, tiền hoa hồng cho người trung gian cũng khá bộn, và sau đó ông cũng đi tù vì tội đồng lõa.

 Konrad Kujau bị kết án 4 năm rưỡi, nhưng gỡ ba cuốn lịch thì được thả. Hầu hết mọi người cho rằng, ông ta chẳng làm hại ai (no real harm). Chính ông ta cũng rất tự hào về tài năng của mình, và sẵn sàng đưa ra một bài học, khi được phóng viên hỏi. Ông rất bực, khi một nhà chuyên môn nghiên cứu thư khố, cho rằng ‘tác phẩm’ của ông ‘hời hợt’. Ông đã mất hai năm trời cặm cụi, tại căn phòng ở phía sau cửa tiệm. Chính cái bề dầy của nó, 62 tập, đã làm những chuyên gia choáng váng. Hugh Trevor-Roper ghi nhận: chúng tạo nên một toàn thể hài hòa. Đủ thứ ở trong đó: nào là những tiểu sử của Hitler, những nhật báo thời kỳ đó… Đôi khi, trong khi viết, tác giả thắng bộ đồ ‘hành quân’ của một tướng lãnh Nazi, để nhập đồng, và có lúc ông cảm thấy, mình chính là Hitler! Tác giả thú nhận:

“Khi viết về Leningrad, tay tôi run run”!